Tả cây tre năm 2024
Tả cây tre năm 2024
Bài văn Tả cây tre gồm dàn ý chi tiết, 6 bài văn mẫu được tuyển chọn từ các bài văn đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài viết Tập làm văn lớp 4.
Đề bài: Tả cây tre.
A/ Dàn ý chi tiết
1. Mở bài
- Giới thiệu chung về cây tre (loài cây quen thuộc với làng quê Việt Nam).
2. Thân bài
- Tả hình dáng cây tre (dáng tre, họ tre, lá tre, thân tre, rễ tre…).
- Nêu công dụng của cây tre (làm rổ, tỏa bóng mát…).
- Cây tre thân thiết với nhân dân như thế nào (biểu tượng của làng quê…).
- Tình cảm đối với lũy tre làng (yêu thương, gắn bó…).
3. Kết bài
- Đất nước có vô vàn sắc màu tươi trẻ nhưng không thể thiếu đi màu xanh của cây tre. Màu xanh ấy đã trở thành bản sắc, biểu tượng cho dân tộc.
B/ Bài văn mẫu
Tả cây tre - mẫu 1
Tuổi thơ của em là những năm tháng vui đùa với cánh đồng và lũy tre xanh.
Lũy tre làng em đẹp lắm! Từ trên con đê nhìn xuống, những luỹ tre xanh um một màu. Tre là loài cây thân đốt, mọc thành bụi, thành lũy kiên cố. Lá trẻ nhỏ, mảnh và có màu xanh. Rễ tre thuộc họ rễ chùm giúp tre bám chắc vào lòng đất. Dưới gốc tre thường mọc lên những mầm măng. Mùa xuân, măng tre mập mạp, nhọn hoắt như chông, mọc lên tua tủa.
Luỹ tre làng trở thành nơi trú ngụ của đàn cò cùng hàng trăm loài chim ưa đất lành. Sáng sớm bình minh, chim chóc cất tiếng hót rồi tung cánh bay đi tìm mồi. Trời giông bão, cây tre ôm chặt lấy nhau, chở che cho mái đình, mái chùa, bảo vệ cho hàng trăm ngôi nhà khỏi gió mưa. Trời nắng hạn, tre toả rợp bóng mát, mang làn gió tới cho em nhỏ, cho cụ già và cho các bác nông dân nghỉ ngơi sau mỗi giờ làm việc vất vả ngoài cánh đồng. Trong cuộc sống hàng ngày, tre trở thành một vật liệu không thể thiếu dùng để đan lát, làm hàng thủ công, làm nhà cửa, lều quán... Tre làng anh dũng trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, là chiến hào chống càn, là nơi từng phơi đầy xác giặc.
Hình ảnh lũy tre khiến lòng em xôn xao tự hào về quê hương. Em rất yêu quê hương của mình cũng như rất yêu lũy tre của làng em.
Tả cây tre - mẫu 2
Hình ảnh quê hương trong tâm trí em thật đẹp, thật thanh bình và yên ả. Vẻ đẹp ấy được dệt nên từ sự hiền hòa của những dòng sông quê, từ những cánh đồng lúa xanh ngát bao la, từ những rặng dừa thẳng tắp... Nhưng đối với em thì hình ảnh lũy tre làng xanh mát, rì rào trong gió thanh luôn đẹp nhất và thân thuộc nhất.
Tre là một loại cây truyền thống của Việt Nam, đã có từ rất lâu như có người đã nói: "Tre xanh xanh tự bao giờ/ Truyện ngày xưa đã có bờ tre xanh". Tre không bao giờ mọc riêng lẻ từng cây mà mọc thành từng khóm, từng bụi, từng lũy. Nhìn từ xa, rặng tre làng như bức tường thành vững chãi bao bọc, ôm ấp những mái nhà ngói san sát đỏ. Không giống những loài cây khác, tre có một đặc tính rất riêng là luôn mọc thẳng. Từ khi còn là mầm măng nhỏ bé đến khi lớn cao chừng mười mét che luôn đâm lên thẳng tắp, mặc cho mưa gió bão bùng.
Phải chăng đó cũng là một phẩm chất đáng quý của người Việt ta: luôn sống ngay thẳng, dù nhỏ bé nhưng biết đoàn kết để vượt qua mọi thử thách, gian nan. Thân tre không to như những loài cây cổ thụ khác. Nó có hình tròn, khoác lên mình tấm áo xanh thẫm, gầy guộc nhưng rất cứng và khỏe khoắn. Có thể nói tre là loại cây duy nhất có một sức sống mãnh liệt. Tre có thể sống ở những nơi sỏi đá khô cằn hay những vùng đất màu mỡ. Có được điều ấy một phần là bởi bộ rễ của tre rất xum xuê, đâm sâu xuống lòng đất để hút chất dinh dưỡng từ đất mẹ. Từ thân tre mọc ra tua tủa biết bao nhiêu cành lá. Cành tre khá nhỏ, đâm ra tứ phía như những cánh tay vươn ra đón lấy ánh nắng mặt trời. Lá tre màu xanh thẫm, thuôn dài và rất mỏng. Vào những trưa hè nóng nực, trong cơn gió mát từ cánh đồng bao la, bụi tre lại xì xào như tiếng nói chuyện của những chiếc lá. Thỉnh thoảng, một vài chiếc lá lìa cành, chao nghiêng giữa không trung rồi đáp xuống mặt nước nhưng những chiếc thuyền bé nhỏ dạo chơi trên sông. Nhiều người thường nghĩ rằng tre không có hoa nhưng thực ra tre chỉ ra hoa một lần. Mỗi khi từng chùm hoa nhỏ li ti màu trắng ngà điểm xuyết cành lá cũng là dấu hiệu của một vòng đời sắp kết thúc.
Tre rất gắn bó với cuộc sống người nông thôn đồng thời góp phần tô điểm cho cảnh sắc quê hương em. Dưới gốc tre mát là nơi vui chơi lý tưởng của bọn trẻ nhỏ. Rồi cành tre là những đồ chơi hữu ích từ chiếc cần câu dẻo dai đến từng chiếc hộp cứng cáp. Tre còn là bạn của nhà nông. Tre làm cán cuốc, cán cày giúp người nông dân đỡ mệt nhọc. Thân tre còn được đan thành những chiếc chõng vững chãi, là nơi say giấc cho bao đứa trẻ, là nơi trò chuyện của các cụ già bàn về một vụ mùa bội thu. Tre còn điểm tô vẻ đẹp cho các cô gái Việt. Hình ảnh những người con gái duyên dáng với chiếc nón tre đã đi vào bao áng văn thơ như một vẻ đẹp thanh khiết và trong trẻo. Không chỉ làm bạn với con người thời bình mà tre còn là người chiến sĩ anh dũng trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ những chiếc cọc tre trên sông Bạch Đằng đánh đuổi quân Nam hán đến những chông tre, gậy tre đánh bại kẻ thù thời kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ.
Cây tre thật đẹp và có ích. Tre vừa mang trong mình vẻ đẹp rất Việt Nam lại là người bạn đồng cam cộng khổ, người đồng chí đồng đội gắn bó với nhân dân ta từ bao giờ. Em mong cây tre xanh sẽ luôn đồng hành cùng dân tộc ta trên từng chặng đường dài.
Tả cây tre - mẫu 3
Mỗi loại cây một vẻ đẹp riêng, một công dụng riêng. Nhưng gần gũi và thân thuộc nhất với con người Việt Nam vẫn là cây tre.
Dáng tre thẳng đứng từ gốc tới ngọn. Gốc bám chặt với lòng đất nên rất cố định. Thân tre thẳng đứng, vỏ láng và được phân vào nhiều mắt trông rất đẹp. Càng lên cao thân nó càng thu nhỏ lại và đâm thẳng lên trời, cây tre cao khoảng mười mét, lá tre dài và nhọn, màu xanh đậm đều đặn được tỏa mát phía sau nhà, cây tre rất có lợi trong đời sống sinh hoạt và trong chiến đấu. Quê em cây tre dùng để phục vụ đời sống con người, tre dùng để làm cột nhà, làm đũa ăn, làm rổ để đựng cá và các dụng cụ khác, tre dùng để làm chông gai, tầm vông vạt nhọn để chống quân xâm lược. Cây tre là hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam.
Cây tre tượng trưng cho lòng dũng cảm, ngay thẳng, đùm bọc và thương yêu nhau. Dù có đi đâu xa em vẫn luôn nhớ về quê hương với những rặng tre xanh rì rào.
Tả cây tre - mẫu 4
Đầu làng em có những khóm tre xanh mát, không biết những khóm tre ấy có từ đời nào, nhưng chỉ biết rằng chúng rất thân với người dân quê tôi.
Nhìn từ xa, lũy tre làng như một bức tường thành bao quanh thôn xóm. Tới gần, mới thấy bức tường thành ấy được tạo bởi nhiều cây tre, gầy guộc, khẳng khiu. Cây này nương tựa cây kia, bất chấp nắng mưa bão giông, vươn lên trên cao, đón nhận ánh sáng mặt trời. Các bà trong làng thường bảo: “Cây tre cũng như người dân quê mình một nắng hai sương, chịu thương chịu khó, bất khuất kiên cường”.
Thân tre tròn lẳn lại nhiều gai, trên thân cây tua tủa những vòi xanh ngỡ như những cánh tay vươn dài. Dưới gốc, chi chít những búp măng non. Búp thì mới nhô khỏi mặt đất, búp thì cao ngang ngực tôi, có búp vượt đầu người. Em cứ nghĩ những búp măng ấy chính là những đứa con thân yêu của tre. Năm năm tháng tháng được mẹ chăm chút ngày một lớn lên, ngày một trưởng thành trong bóng mát yêu thương.
Những ngày hè oi bức, nắng như đổ lửa trên đồng, lũy tre là nơi nghỉ ngơi của bà con, cô bác. Buổi trưa, tre che nắng cho trâu nằm, ru cho trâu ngủ. Buổi chiều, chúng em ra ngồi dưới gốc tre trò chuyện, vui chơi. Có những đêm rằm, bọn trẻ con chúng em còn mang đèn treo lên những cành tre. Ánh sáng lấp lánh, chúng em nhảy múa, cười đùa, vui ơi là vui! Lá tre rì rào tiếng hát, rầm rì kể chuyện ngày xưa có tre làm bạn cùng chúng em.
Tre đi vào cuộc sống của con người quê em. Đó là người bạn tâm tình của nhiều thế hệ người làng. Ai đi xa cũng nhớ về cây tre, cũng nhớ về lũy tre làng xanh mát yêu thương, ngay cả em cũng vậy.
Tả cây tre - mẫu 5
Có nhà thơ đã viết:
"Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành, tre ơi!"
Luỹ tre làng em đẹp lắm. Đứng trên rú Chàng, đứng trên cầu Độ mà ngắm, luỹ tre làng em xanh um một màu. Trời giông bão, cây tre ôm chặt lấy nhau, chở che cho mái đình, mái chùa, bảo vệ cho hàng trăm ngôi nhà. Trời nắng hạn, nóng như nung, lũy tre tỏa bóng mát. Gió thổi, lũy tre phấp phới rung lên, xua đuổi cái nóng, quạt mát cho em nhỏ, cho cụ già. Thời kháng chiến, luỹ tre làng là chiến hào chống càn, là nơi từng phơi đầy xác giặc.
Tre đủ loại. Có tre to để đan lát, làm hàng thủ công, để làm nhà cửa, lều quán. Có tre gai làm cho luỹ làng kiên cố. Mùa xuân, măng tre mập mạp, nhọn hoắt như chông, mọc lên tua tủa. Luỹ tre làng em là nơi trú ngụ của đàn cò, bầy vạc, là nơi trú ngụ của hàng trăm loài chim. Sáng sớm bình minh, chim chóc cất tiếng hót rồi tung cánh bay đi tìm mồi. Trời chập choạng, luỹ tre là tổ ấm cho đàn chim trời hiền lành, đáng yêu kéo về kêu râm ran, tỉ tê trò chuyện.
Đêm đêm nằm ngủ, em nghe luỹ tre thầm thì.
Bước ra khỏi nhà, khỏi làng, trên đường đi học, em ngoái cổ lại nhìn luỹ tre làng, lòng xôn xao tự hào về nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu. Luỹ tre làng là bến quê của em.
Tả cây tre - mẫu 6
Ở đầu làng em có một khóm tre già. Em không biết nó trồng từ lúc nào nhưng bây giờ nó đã to, cao hơn cả ngôi trường em đang học.
Bụi tre này cao trên tám mét, thân thẳng đuột. Những cây tre ôm sát nhau đếm không xuể. Thân cây được chia làm nhiều đốt, không có màu nâu đất như nhiều loại cây khác mà óng óng một màu xanh. Những nhánh tre thường rất nhỏ, mọc ngay dưới gốc và hay có gai gồ ghề. Lá tre nhỏ bằng một nửa lá xoài, lúc còn non cũng cuộn lại như lá chuối, sau dần dần xòe ra cho gió đưa đẩy.
Quanh khóm tre được bao bọc bằng những dây lá bát. Khóm tre dày nhất là ở phần gốc, càng lên cao càng thưa dần. Tuy là một loài cây lấy gỗ, nhưng rễ của nó lại là rễ chùm, chằng chịt như có hàng triệu con giun khổng lồ. Rồi ngày tháng qua đi, những cây tre cũng dần già đi bị chủ chặt về, để nhường chỗ cho những búp măng: búp màu xanh, búp màu nâu xen kẽ nhau trông thật vui mắt. Thế rồi những búp măng ấy cũng lớn dần dần, từ giã lớp vỏ bên ngoài để trở nên vững chãi và rắn chắc hơn.
Tre rất có ích. Lá tre có thể nhóm lửa. Gỗ để đóng bàn ghế, giường…Thỉnh thoảng, người ta còn nhổ cả rễ tre về làm thuốc. Nếu ai có dịp được thưởng thức những búp măng thì thật tuyệt! Do tre có ích như thế, nên em yêu biết bao những khóm tre đầu làng.