Cảm nghĩ về Những câu hát than thân năm 2023
Cảm nghĩ về Những câu hát than thân năm 2023
Bài văn Cảm nghĩ về Những câu hát than thân gồm dàn ý chi tiết, 2 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 7.
Đề bài: Em hãy chọn một số câu hát than thân và phát biểu cảm nghĩ của mình về những câu hát ấy.
Bài văn mẫu 1
Ca dao, dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Nó không chỉ thể hiện tình cảm gắn bó thiết tha đối với quê hương, đất nước... mà còn là tiếng thở than về số phận bất hạnh và những cảnh ngộ khổ cực, đắng cay.
Những câu hát than thân ngoài ý nghĩa than thân trách phận còn có ý nghĩa phản kháng, tố cáo sự thối nát, bất công của xã hội phong kiến đương thời. Điều đó được thể hiện chân thực và sinh động qua hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ đa dạng, phong phú. Ba câu hát sau đây là những ví dụ tiêu biểu:
1. Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con? 2. Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe. 3. Thân em như trái bần trôi, Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?
Cả ba câu hát đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền với âm hưởng ngậm ngùi, thương cảm, cùng với những hình ảnh so sánh hoặc ẩn dụ thường thấy trong ca dao để diễn tả thân phận bé mọn của lớp người nghèo khổ trong xã hội cũ (con cò, con tằm, con kiến, trái bần... ). Mở đầu mỗi câu thường là những cụm từ như Thương thay... Thân em như... và nội dung ý nghĩa được thể hiện dưới hình thức câu hỏi tu từ.
Câu 1: Trong ca dao xưa, người nông dân thường mượn hình ảnh con cò để diễn tả cuộc đời và thân phận bé mọn của mình, bởi họ tìm thấy những nét tương đồng ở loài chim quen thuộc ấy.
Bức tranh phong cảnh nông thôn Việt Nam không thể thiếu những cánh có lặn lội kiếm ăn trên cánh đồng, lạch nước. Cò gần gũi bên người nông dân lúc cày bừa, cấy hái vất vả. Cò dang cánh nối đuôi nhau bay về tổ lúc hoàng hôn... Con cò đã trở thành người bạn để người nông dân chia sẻ tâm tình:
Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Nghệ thuật tương phản tài tình trong câu ca dao trên đã làm nổi bật hình ảnh đáng thương của con cò. Giữa trời nước mênh mông, cò lủi thủi, đơn côi, lầm lũi kiếm ăn. Thân cò vốn đã bé nhỏ lại càng thêm bé nhỏ. Đã vậy mà cò vẫn phải lên thác, xuống ghềnh, đương đầu với bao lỗi éo le, ngang trái. Câu ca dao như một tiếng thở dài não nề, như một lời trách móc, oán than trước nghịch cảnh của cuộc đời.
Nhìn cái dáng lêu đêu, gầy guộc của con cò lặn lội đồng trên, ruộng dưới để mò tép, mò tôm, người nông dân ngậm ngùi liên tưởng tới thân phận mình phải chịu nhiều vất vả, nhọc nhằn và bất bình đặt ra câu hỏi nguyên cớ do đâu:
Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?!
Cò đã cam chịu số kiếp hẩm hiu, thế nhưng nó vẫn không được sống yên ổn trong cảnh bần hàn mà vẫn bị một ai đó, một thế lực nào đó đẩy vào bể đầy, ao cạn trớ trêu. Phải chăng đó chính là giai cấp thồng trị trong xã hội cũ luôn muố dồn người bị trị vào bước đường cùng?!
Cao hơn ý nghĩa của một câu hát than thân, bài ca dao trên chứa đựng thái độ phản kháng và tố cáo xã hội đương thời. Hình ảnh con cò ở đây tượng trưng cho thân phận long đong, khốn khổ của người nông dân nghèo vì sưu cao, thuế nặng, vì nạn phu phen, tạp dịch liên miên, vì sự bóc lột đến tận xương tủy của giai cấp thống trị.
Vẫn theo mạch liên tưởng giống như ở bài ca dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai là một ẩn dụ so sánh giữa thân phận cuat người nông dân với những loài vật bé nhỏ, tầm thường như con tằm, con kiến:
Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe.
Đây là câu hát nói về những số phận vất vả, bất hạnh. Điệp từ Thương thay được lặp lại bốn lần, biểu hiện sự thương cảm, xót xa vô hạn. Thương thay là thương cho thân phận mình và thân phận của những người cùng cảnh ngộ.
Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ là thương cho những người lao động nghèo khổ suốt đời bị kẻ khác bòn rút sức lực, công lao. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi là thương cho nỗi khổ chung của những thân phận nhỏ nhoi, suốt đời xuôi ngược vất vả làm lụng mà vẫn cơ cực, nghèo khổ. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi là thương cho những cuộc đời phiêu bạt, lận đận để kiếm sống qua ngày. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe là thương cho những thân phận thấp cổ bé họng, suốt đời ôm khổ đau oan trái, không được ánh sáng công lí soi tỏ.
Bốn câu ca dao là bốn nỗi xót thương. Sự lặp đi lặp lại ấy tô đậm mối cảm thông và xót xa cho những cuộc đời cay đắng nhiều bề của người dân nghèo trong xã hội cũ. Sự lặp lại còn có ý nghĩa kết nối, mở ra những niềm thương xót khác nhau và mỗi lần lặp lại, tình ý của bài ca lại được phát triển và nâng coa thêm.
Trong ca dao, người xưa có thói quen khi nhìn nhận sự vật thường hay liên hệ đến cảnh ngộ của mình, vận vào thân phận mình. Họ đồng cảm với những con vật bé nhỏ, tội nghiệp (con sâu, cái kiến, con cò, con vạc, con hạc giữa trời, con hạc đầu đình, con cuốc kêu sương, con cuốc kêu ra máu,... ) bởi nghĩ rằng chúng cũng có số kiếp, thân phận khốn khổ như mình. Những hình ảnh có tính chất ẩn dụ trong các câu hát kết hợp với bút pháp miêu tả chân thực khiên cho những cảnh ngộ thương tâm gây xúc động thấm thía.
Tằm ăn lá dâu, nhả ra tơ để con người lấy tơ dệt thành lụa, lĩnh, gấm, vóc... những mặt hàng may mặc quý giá phục vụ cho tầng lớp thượng lưu giàu có. Đã là kiếp tằm thì chỉ ăn ládâu, thứ lá tầm thường mọc nơi đồng ruộng, bãi sông. Mà con tằm bé nhỏ lia ăn được là bao?! Mượn hình ảnh ấy, người lao động ngụ ý nói đến sự bóc lột quá đáng của giai cấp thống trị đối với họ. Công sức họ bỏ ra quá nhiều mà hưởng thụ dường như chẳng là mấy. Điều ấy dẫn đến kiếp sống nhọc nhằn, nghèo đói kéo dài, tưởng như không thể tìm ra lối thoát.
Câu hát: Thương thay hạc lánh đường mây, Chím bay mỏi cánh biết ngày nào thôi diễn tả sự chia li bất đắc dĩ giữa người đi xa với những người thân yêu, với mảnh đất chôn nhau cắt rốn để tha phương cầu thực, để trốn thuế trốn sưu. Con đường mưu sinh trước mặt quá đỗi gập ghềnh, nguy hiểm. Người gạt nước mắt ra đi, biền biệt bóng chim tăm cá, như hạc lánh đường mây, như chim bay mỏi cánh, biết đến bao giờ được trở lại cố hương, sum vầy cha con, chồng vợ?! Kẻ ở nhà đỏ mắt thấp thỏm lo lắng, đợi trông. Trong vô vàn nỗi khổ của kiếp người, có nỗi khổ nào bằng sinh li, tử biệt?!
Câu hát cuối: Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe ý thơ lấy từ sự tích vua Thục Đế mất nước, hận mà chết rồi biến thành con chim đỗ quyên hay còn gọi là chim cuốc, chim đa đa, cứ hè đến là kêu ra rả đến trào máu họng. Nội dung câu hát này nói đến nỗi khổ sở, oan khuất của kẻ nghèo. Bao nỗi đau đớn do áp bức bất công gây ra cũng đành nuốt cả vào lòng bởi trời thì cao, đất thì dày, có kêu cũng chẳng thấu tới đâu. Khác chi tiếng kêu của con chim cuốc cứ da diết, khắc khoải vang vọng giữa thình không mà nào có ai để ý.
Cách mở đầu mỗi câu đều bằng từ cảm thán (Thương thay... Thương thay...) tạo ra âm điệu ngậm ngùi, mang đậm nỗi sầu thương thân, trách phận. Khe khẽ ngâm nga, ta sẽ thấy bài ca dao trên giống như một tiếng thở dài hờn tủi và tuyệt vọng.
Bài ca dao thứ ba phản ánh thân phận khốn khổ của người phụ nữ nông thôn trong xã hội cũ. Hình ảnh so sánh trong bài có nét đặc biệt mang tính chất địa phương của một vùng sống nước miền Nam.
Tên gọi của trái bần gợi sự liên tưởng đến thân phận người nghèo. Trong ca dao Nam Bộ, hình ảnh trái bần, trái mù u, trái sầu riêng thường gợi đến những cuộc đời đầy đau khổ, đắng cay.
Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia có khác gì trái bần nhỏ bé liên tiếp bị gió dập sóng dồi. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào hoàn cảnh, không có quyền tự mình quyết định cuộc đời. Xã hội phong kiến luôn muốn nhấn chìm họ, phủ nhận vai trò của họ.
Tóm lại, cả bài ca dao trên đều xoay quanh nội dung thân thân trách phận. Cuộc đời của người nông dân nghèo đói xưa là một bể khổ mênh mông không bờ không bến. Hiện thực thì tăm tối, tương lai thì mù mịt, họ chẳng biết đi về đâu. Điều đó chỉ chấm dứt từ khi có ánh sáng Cách mạng của Đảng soi đường dẫn lối, giải phóng nông dân ra khỏi xiềng xích áp bức của giai cấp phong kiến thống trị kéo dài bao thế kỉ.
Ngày nay, cuộc sống buồn đau, cơ cực đã lùi vào dĩ vãng. Tuy vậy, mỗi khi đọc những bài ca dao trên, chúng ta lại càng hiểu, càng thương hơn ông bà, cha mẹ đã phải chịu kiếp đóinghèo trong rơm rạ của một dĩ vãng đen tối đã lùi xa.
Bài văn mẫu 2
Ca dao than thân là những câu hát ca nỉ non được cất lên từ bao mảnh đời nhỏ bé, bất hạnh, tội nghiệp như người phụ nữ, người nông dân. Những tiếng ca ấy vừa để than thân, trách phận vừa thể hiện tinh thần phản kháng chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định khát vọng tự do, giải phóng thân phận của kiếp lầm than. Trong kho tàng ca dao than thân vô cùng phong phú, ba bài ca dao dưới đây để lại trong tôi nhiều ấn tượng và xúc cảm hơn cả.
1. “Nước non lận đận một mình
...Cho ao kia cạn cho gầy cò con”
2. “Thương thay thân phận con tằm
...Dầu kêu ra máu có người nào nghe”
3. “Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”
Điểm chung giữa ba bài ca dao đó là đều sử dụng thể thơ lục bát cổ truyền của dân tộc để thể hiện cảm xúc. Đây là thể thơ giản dị về quy luật, có cách ngắt nhịp, gieo vần đặc biệt nên có khả năng diễn tả mọi cung bậc tình cảm của con người. Đặc biệt, cả ba bài câu hát đều sử dụng các sự vật, con vật gần gũi, nhỏ bé, đáng thương nữ con cò, con tằm, con kiến, con hạc, trái bần trôi,...làm hình ảnh biểu tượng, ẩn dụ so sánh để diễn tả tâm trạng thân phận con người. Đồng thời cả ba bài ca dao đều sử dụng những mô típ than thân quen thuộc như “thân cò, thân em, thương thay” để khởi đầu cho mỗi tiếng than. Đó đều là những đặc trưng tiêu biểu trong ca dao than thân Việt Nam.
Bài ca dao đầu tiên là tiếng than ai oán đến tái tê lòng của người phụ nữ nông dân cho bản thân mình và con cái của họ. Đã từ rất lâu, hình ảnh cánh cò lầm lũi, cặm cụi đi ăn đêm trên cánh đồng trở thành nỗi ám ảnh đầy thương tâm trong lòng người. Trong bài ca dao này, “thân cò” và “cò con” được sử dụng như những biểu tượng ẩn dụ cho số phận người phụ nông dân đáng thương, tôi nghiệp cùng đứa con nhỏ bé của họ. Hai câu đầu, với từ láy “lận đận” kết hợp với thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” đã cho thấy nỗi khổ cực, nhọc nhằn, vất vả của người phụ nữ: “Nước non lận đận một mình/Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay”. Giữa ruộng đồng mênh mông, hiu quạnh thân cò quanh năm lầm lũi, cặm cụi kiến ăn. Dáng vẻ hao gầy, mệt mỏi của con cò kia cũng giống như cuộc đời lam lũ, khốn khó của người phụ nữ nông dân, một mình bươn trải trước sóng gió cuộc đời. Cụm từ “bấy nay” cho thấy quãng thời gian dài đằng đẵng phải chịu đựng những gian nan, vất vả. Tiếng ca cất lên như một tiếng khóc đầy tủi hờn cho số phận.
Cuộc đời nhọc nhằn còn không cho người phụ nữ nông dân được chút bình yên, những thế lực xấu xa chưa bao giờ buông tha cho họ. Chúng tạo ra muôn vàn cay đắng bắt người nông dân phải chịu đựng. Không biết san sẻ cùng ai, những kiếp lầm than ấy đã gửi gắm trong lời ca dao tiếng kêu ai oán, trách móc đẫm lệ: “Ai làm cho bể kia đầy/Cho ao kia cạn cho gầy cò con”. Đại từ nhân xưng “ai”cất lên thay cho lời phiếm chỉ tố cáo những thế lực gây ra nỗi thống khổ cho con người. “Bể đầy” “Ao cạn” là những hình ảnh tượng trưng cho điều oan trái, bất công trong cuộc đời. Từ “cho” được điệp lại ba lần trong một tiếng hát giống như những tiếng nấc nghẹn ngào, thống thiết. Đặc biệt, hình ảnh “cò con” xuất hiện ở cuối bài càng làm tăng thêm bi kịch cho câu hát than thân. Đời mẹ đã khổ đau, nhọc nhằn vất vả nhưng đời con trước sự áp bức bóc lột của thế lực phong kiến càng đau đau thương, hao gầy hơn. Bài ca dao vừa là lời than than, vừa là tiếng nói phản kháng, tố cáo gay gắt tội ác của bọn vua quan thống trị vì sưu cao thuế nặng, vì phu phen nô dịch để lại đã để lại đau khổ cho bao kiếp người.
Tiếng kêu ai oán của người nông dân không bao giờ ngưng khi những bất công oan trái của cuộc đời còn đè nặng lên vai họ. Tiếp nối mạch cảm xúc trong bài cao dao thứ nhất, bài ca dao thứ hai tiếp tục là tiếng than não nùng về thân phận vất vả, bất hạnh của người nông dân.
“Thương thay thân phận con tằm
...Dầu kêu ra máu có người nào nghe”
Toàn bộ bài ca dao là những ẩn dụ đặc sắc, lấy những hình ảnh của con vật nhỏ bé gắn với đặc tính sinh hoạt của chúng để ẩn dụ cho số phận của người nông dân. Điệp khúc “thương thay” được lặp lại bốn lần trong bài ca dao như khúc dạo đầu cho mạch cảm xúc sầu thương, buồn sầu.
Điệp khúc đầu tiên “Thương thay thân phận con tằm/Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ”, tằm là loài vật nhỏ bé, đáng thương, chăm chỉ cần cù nhả tơ xong những cuộn tơ ấy lại để cho người khác lấy đi và tằm cũng kết thúc vòng đời của mình. Giống như người nông dân làm việc lam lũ, vất vả nhưng công lao không những không được ghi nhận mà thường xuyên bị bòn rút sức lao động. Cùng chung số phận với kiếp con tằm, lũ kiến nhỏ bé, li ti trong điệp khúc thứ hai “Thương thay lũ kiến li ti/Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi” cũng bôn ba ngược xuôi vất vả kiếm miếng ăn nhưng suốt đời vẫn phải sống trong nghèo khổ. Cuộc đời của lũ kiến ấy cũng chính là ẩn dụ về cuộc đời của người nông dân. Đến điệp khúc thứ ba “Thương thay hạt lánh đường mây/Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi” là nỗi chua xót đồng cảm về một cuộc đời bôn ba phiêu dạt, vô định không chốn dừng chân. Đặc biết điệp khúc thứ tư “Thương thay con cuốc giữa trời/Dầu kêu ra máu có người nào nghe”, khiến ta không kìm nổi nước mắt trước hình ảnh con cuốc bơ vơ cô đơn giữa dòng đời, cất tiếng kêu than nhỏ máu, đứt ruột thảm thiết nhưng rồi đổi lại là sự vô vọng, bất lực. Cuộc đời của người nông thấp cổ bé họng cũng vậy, cả đời ôm nỗi oan trái, dằn vặt mà không biết tỏ bày cùng ai. Biết bao cảnh ngộ, bao số phận đáng thương, tội nghiệp được gợi ra trong bài ca dao than thân ấy. Bài ca dao vừa là là tiếng than đầy tủi hờn, tuyệt vọng vừa là tiếng nói tố cáo những điều bất oan trái, bất công trong xã hội trái bất công trong xã hội khiến người nông phải chịu đựng bao khổ đau.
Không chỉ người nông dân, trong xã hội phong kiến người phụ nữ cũng phải chịu vô vàn bất công, cay đắng. Quan niệm “trọng nam khinh nữ”, truyền thống “tam tòng tứ đức” như chiếc cùm gông vô hình xiết chặt lấy cổ người phụ nữ, bóp chết quyền tự go, quyền hạnh phúc của họ. Bài ca dao thứ ba là tiếng khóc than thân của người phụ nữ nghe mà nhói lòng:
“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”.
Mô típ “thân em” mở đầu bài ca dao vừa tha thiết, xúc động. Người phụ nữ trực tiếp xuất hiện trong câu ca, lên tiếng để than thân, tiếng “em” vang lên bình dị, khiêm nhường, đậm chất nữ tính. Hình ảnh so sánh ẩn dụ mang sắc thái vùng miền Nam bộ “trái bần trôi”, đó là loai quả nhỏ bé có vị vừa chua vừa chát sống ở ven sông, khi nó chín quả sẽ rụng xuống sông trôi lênh đênh trên mặt nước. Đặc tính và dòng đời cả trái bần có nét tương đồng với người phụ nữ, cũng chua chát, hẩm hiu, nổi lênh, vô định. Câu hỏi tu từ “gió dập sóng dồi biết tâm vào đâu” vừa là niềm băn khoăn, vừa là nỗi lo sợ trước cuộc đời của người phụ nữ. “Gió dập sóng dồi” tượng trưng cho những phong ba bão táp của cuộc đời, người phụ nữ vốn đã yêu đuối, nhỏ bé làm sao có thể đứng vững trước bao cơn sóng gió ấy. Bài ca dao vừa là tiếng hát than thân nỉ non cho thân thân nhỏ bé, tội nghiệp của người phụ nữ, sự lo lắng bất an về tương lai vô định, đồng thời là những tiếng trách mọc đầy căm phẫn về xã hôi phong kiến bất công chà đạp lên người phụ nữ.
Như vậy, có thể thấy cả ba bài ca dao đều là những tiếng ca than thân trách phận đầy tủi hờn, xót xa. Đọc những câu ca dao ta không thể cầm lòng xúc động, thương xót cho những số phận ấy. Ta thêm thấu hiểu về cuộc đời cha ông ngày trước đã phải chịu gánh chịu những đắng cay, tủi cực như thế nào để từ đó thêm yêu và trân trọng cuộc sống ngày hôm nay.