X

Soạn văn 8 Cánh diều

Top 30 Viết bài nghị luận phân tích một tác phẩm kịch (siêu hay)


Haylamdo biên soạn và sưu tầm tổng hợp trên 30 Viết bài nghị luận phân tích một tác phẩm kịch hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 30 Viết bài nghị luận phân tích một tác phẩm kịch (siêu hay)

Viết bài nghị luận phân tích một tác phẩm kịch - mẫu 1

Đoạn trích “Đổi tên cho xã” của tác giả Lưu Quang Vũ đã cho người đọc thấy được tác hại của bệnh sĩ diện và ảnh hưởng của nó đến cộng đồng, xã hội chỉ thông qua sự việc đổi tên của xã Hùng Tâm.

Xã Hùng Tâm mở cuộc họp thông báo những đổi mới của xã Hùng Tâm từ tên xã đến chức vụ của một số người. Nhân vật ông Chủ tịch xã Toàn Nha tiêu biểu cho kiểu người thích sống giả dối trong xã hội. Ông Nha là một người sống giả dối và tham vọng một cách mù quáng. Ông mong ước xây dựng và phát triển một xã khoa học để ông vẻ vang với các xã khác và với cấp trên. Ông tìm hiểu những nơi khác nhưng chỉ tìm hiểu một cách hời hợt, chưa có sự phân tích tình hình thực tế của xã mình đã vội vàng đổi mới. Ông muốn phát triển kinh tế nhưng lại vứt bỏ những thứ vốn là cần câu cơm của người dân nơi đây. Ông nói những từ ngữ khoa chương, lố bịch như " Bây giờ làm ăn mới rồi, quy mô khoa học... Đâu muốn hoạn phải mang lợn đến tận trụ sở". Ông nói rất cao siêu nhưng thực tế thì phũ phàng bởi những lời ông nói chỉ là sáo rỗng, ông phong chức một cách tràn lan nhưng thực tế thì chẳng ra đâu vào đâu, chính những người giữ chức đó còn chẳng hiểu mình sẽ làm gì.

Nhân vật trong đoạn trích có sự không tương xứng giữa thực chất bên trong và hình thức bên ngoài, giữa suy nghĩ và hành động khiến việc làm trở nên lố bịch hài hước. Ví dụ: Ông Đốp một tên hoạn lợn lại được phong cho làm chức Chủ nhiệm Trung tâm Triệt sản gia súc xã Hùng Tâm; Ông Thình vốn là đội trưởng đội làm những nghề phụ của xã lại được phong làm Chủ nhiệm Trung tâm Công nghệ...

Ngôn ngữ của ông không phù hợp với một cuộc họp mang tính chất trang nghiêm. Lời nói có nhiều từ ngữ không rõ nghĩa như: ta bung ra, ta bung ra pháo. Điều buồn cười nữa là ở chỗ ông muốn phát triển kinh tế nhưng những công việc vốn là lợi thế ở xã lại triệt để vứt bỏ, chuyển sang sản xuất pháo, thứ mà chính những người nhận nhiệm vụ quản lí cũng không hiểu rõ. Ông Nha càng cố nói những từ khoa học, thì càng lộ ra nhiều sự thiếu hiểu biết của mình như Trung tâm Công nghệ mà chỉ sản xuất có pháo.

Văn bản có sự mâu thuẫn giữa cái xấu và cái tốt. Ông Nha vẽ ra một viễn tưởng cao đẹp về một xã phát triển, giàu mạnh nhưng thực tế thì những gì ông làm đều chỉ đẩy người dân vào cái nghèo đói. Đó là sự tương phản giữa áo tưởng và thực tế. Kết quả là một loạt các chức danh mới được tạo ra nhưng không khoa học và rối loạn.

Văn bản Đổi tên cho xã đã nêu lên và phê phán một hiện tượng nhức nhối trong xã hội Việt Nam, đó là thích sĩ diện. Đoạn trích cũng sử dụng thủ pháp trào phúng, phóng đại. Ví dụ: Ông Nha vẽ lên những viễn tưởng cao đẹp về một xã phát triển khoa học, giàu mạnh những thực tế nhưng thực tế chỉ là những lời nói sáo rỗng, giả dối, lố bịch.

Dàn ý Viết bài nghị luận phân tích một tác phẩm kịch

- Mở bài: Giới thiệu về tác phẩm kịch

- Thân bài:

+ Khái quát nội dung đoạn trích và nêu tình huống kịch

+ Lí giải về xung đột và việc giải quyết xung đột thể hiện trong đoạn trích.

+ Phân tích đặc điểm nổi bật của một số nhân vật, qua đó, thấy được ý nghĩa của đoạn trích.

- Kết bài: Nhận xét về giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích; rút ra những bài học về nhận thức và hành động cho bản thân.

Viết bài nghị luận phân tích một tác phẩm kịch - mẫu 2

Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng ở Việt Nam với một khối lượng tác phẩm và giá trị văn học phong phú. Triết lí sống và quan điểm sáng tác của ông là viết văn để bày tỏ lòng yêu nước: “Phận sự một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ thôi”. Một trong những tác phẩm đặc sắc của ông không thể không kể đến vở kịch nổi tiếng “Vũ Như Tô”. Đoạn trích “Vĩnh

Biệt Cửu Trùng Đài” đã thể hiện rất sâu sắc quan niệm nghệ thuật của ông.

Vở kịch “Vũ Như Tô” gồm 5 hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517. Tác phẩm được Nguyễn Huy Tưởng viết xong vào mùa hè năm 1941, tựa đề vào tháng 6 năm 1942. Vở kịch kể về Vũ Như Tô - một kiến trúc sư tài giỏi, bị Lê Tương Dực – tên vua tàn bạo bắt xây Cửu Trùng Đài thành nơi để hắn ăn chơi, hưởng lạc. Tuy nhiên, là một người nghệ sĩ chân chính, Vũ Như Tô đã không nhận lời dù có bị hắn đe dọa sẽ giết chết. Nhưng Đan Thiềm một cung nữ đã thuyết phục được ông xây Cửu Trùng Đài. Việc Cửu Trùng Đài xây cao bao nhiêu cũng đồng nghĩa với việc lòng dân oán hận Vũ Như Tô bấy nhiêu. Lợi dụng tình thế đó, quận công Trịnh Duy Sản đã dấy binh nổi loạn triều đình. Đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” là bức tranh tiếp nối các sự kiện cao trào ấy.

Thể loại kịch đã không còn xa lạ với kho tàng văn chương Việt Nam. Đây là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, có sự kết hợp ăn ý của nhiều ngành thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như văn học, sân khấu điện ảnh,.... Và mâu thuẫn xung đột kịch được coi là yếu tố “linh hồn” của mỗi vở kịch, một yếu tố quan trọng góp phần khắc họa nhân vật và xây dựng cốt truyện.

Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được mâu thuẫn trực tiếp cho văn bản, được thể hiện ở cuộc nổi dậy của binh lính và nhân dân chống lại triều đình. Đó là mâu thuẫn giữa đời sống xa hoa trụy lạc của Lê Tương Dực với đời sống cơ cực thống khổ của nhân dân lao động. Những mâu thuẫn ấy đã có từ trước đấy, đè nén cuộc sống cực khổ của của người dân, nhưng đến khi Lê Tương Dực bắt Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài thì nó lại càng trở nên căng thẳng hơn. Để xây dựng cửu Trùng Đài, triều đình đã tăng sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối, thợ phải làm việc cật lực mà vẫn đói khát. Người dân căm phẫn vua làm cho dân cùng, nước kiệt, còn Vũ Như Tô bị thợ thuyền oán trách do nhiều người chết vì tai nạn hay chết vì bị chém đầu do chạy trốn. Khi ấy, Trịnh Duy Sản cũng đã can ngăn Lê Tương Dực, đòi đuổi bọn cung nữ, giết Vũ Như Tô nhưng không thành mà còn bị đánh đòn.

Mâu thuẫn thứ hai được tác giả xây dựng là mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần túy và lợi ích thiết thực của nhân dân thể hiện ở mục đích xây dựng Cửu trùng đài của Vũ Như Tô và của triều đình Lê Tương Dực.

Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài năng, có khả năng "tranh tinh xảo với hóa công" nhưng ông không có đất dụng võ trong một xã hội thối nát, trong khi nhân dân còn đói khổ lầm than. Nghe theo lời khuyên của Đan Thiềm, Vũ Như đã Tô mượn uy quyền và tiền bạc của Lê Tương Dực để thực hiện hoài bão xây dựng một công trình nguy nga, vĩ đại. Nhưng niềm khao khát được cống hiến, được sáng tạo chân thành đã đẩy Vũ Như Tô vào tình trạng đối nghịch với lợi ích trực tiếp và thiết thực của nhân dân, bị những người thợ coi như kẻ thù.

Nguyễn Huy Tưởng đã mở đầu tác phẩm bằng cuộc đối thoại giữa Đan Thiềm và Vũ Như Tô. Đan Thiềm đã thốt lên tiếng kêu hoảng hốt và khuyên Vũ Như Tô mau chạy trốn. Cung nữ Đan Thiềm mặt cắt không còn hột máu vào cầu xin, van nài Vũ Như Tô chạy trốn đầy chân thành, tha thiết: “Ông nghe tôi! Ông trốn đi! Ông nghe tôi! Ông phải trốn đi mới được”. Tất cả hành động của nàng đều chứng tỏ cô là một người quý trọng người tài, biết lo trước lo sau cho tài năng đất nước. Cô cầu xin, van nài, chắp tay lạy ông và khẳng định rằng: “Ông trốn đi. Tài kia không nên để uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai điểm tô nữa”

Tình thế biến loạn ở kinh thành rất nguy hiểm và gay gắt nhưng ông lại nhất quyết không trốn và cho rằng: “Những người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết, thì cùng phải để cho mọi người biết rằng công việc mình làm chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả ở đây, thì tôi chạy đi đâu?”. Cửu Trùng Đài là một thứ vô cùng quý giá đối với Vũ Như Tô, ông coi nó như là cả phần linh hồn và thể xác mà mình cùng với Đan Thiềm đã gây dựng nên. Tuy nhiên, nó cũng đã khiến ông mù quáng và mê hoặc đến mức không thể thoát ra khỏi ảo tưởng của mình để trở về tình thế thực tại. Ông tin rằng mình không có tội, vẫn cố cãi lý với đời: “Có lý gì để họ giết tôi?”, đứng trước quân khởi loạn vẫn tự trấn an mình và mọi người: “Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một tòa đài để tạ lòng tri kỷ”. Lúc này, Vũ Như Tô đang đứng trên lập trường người nghệ sĩ mà vô tình bác bỏ lập trường của nhân dân. Ông không nghĩ mình bị nhân dân oán hận, căm ghét, ông vẫn nghĩ rằng Cửu Trùng Đài chẳng phải đang tô điểm cho đất nước đây sao?

Đến khi kinh thành bốc hỏa theo lệnh của An Hòa Hầu, Vũ Như Tô đã rơi vào tuyệt vọng khi tận mắt chứng kiến cảnh Đài Cửu Trùng bốc cháy như giàn thiêu: “Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì?”. Ông gào lên đầu đau đớn, đỉnh điểm sự tuyệt vọng và bất lực. Nhưng đến khi chết, ông vẫn không hiểu tại vì sao lại ra nông nỗi này: “Ta tội gì? Ta không có tội! Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu trùng đài!”. Ông là một tài năng, một thiên tài có khát vọng hoài bão đem đến cái đẹp cho dân, nhưng chính vì không giải quyết được mâu thuẫn giữa nghệ thuật và cuộc sống nên ông đã phải trả một cái giá rất đắt. Mâu thuẫn đối lập ngay trong chính con người Vũ Như Tô.

Việc đưa ra hai mâu thuẫn trong vở kịch này, liệu đã thực sự được Nguyễn Huy Tưởng giải quyết?

Về mâu thuẫn giữa cuộc nổi dậy của binh lính và nhân dân chống lại triều đình đã được giải quyết một cách dứt khoát bằng cảnh quân nổi loạn đốt Cửu Trùng Đài và giết vua. Nhưng mâu thuẫn trong con người Vũ Như Tô vẫn chưa được giải quyết. Trong lời tựa đề vở kịch, Nguyễn Huy Tưởng có viết: "Than ôi! Như Tô phải hay những người giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm". Qua lời tựa ấy, Nguyễn Huy Tưởng đã bộc lộ chân thành những băn khoăn của mình: “Lẽ phải thuộc về Vũ Như Tô hay những kẻ giết Vũ Như Tô?”. Việc Vũ Như Tô có tội hay có công, cõ lẽ tác giả cũng không thể đưa ra một lời giải đáp thỏa đáng cho độc giả.

Bằng tài năng và cây bút tài hoa, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng mâu thuẫn kịch tập trung dẫn đến cao trào, phát triển thành đỉnh điểm với hàng loạt hành động kịch dồn dập, kịch tính. Ông cũng sử dụng ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao. Từ đó, ông đã xây dựng nhân vật kịch đặc sắc, khắc họa rõ tính cách, miêu tả đúng tâm trạng qua ngôn ngữ và hành động. Tiêu biểu là Vũ Như Tô và Đan Thiềm.

Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đã đặt ra vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật thuần túy cao siêu muôn đời với lợi ích thiết thực của nhân dân. Thật đúng như Grandi từng khẳng định: “Không có nghệ thuật nào là không hiện thực”. Đây chính là một bài học đắt giá về nghệ thuật dành cho những người nghệ sĩ.

Viết bài nghị luận phân tích một tác phẩm kịch - mẫu 3

Kịch là một trong ba thể loại chính của nền văn học Việt Nam, nhắc đến kịch thì ngoài cái tên nổi tiếng như Lưu Quang Vũ thì ta còn biết đến cái tên Nguyễn Huy Tưởng. Đặc biệt Nguyễn Huy Tưởng không chỉ là một nhà viết kịch mà còn là một nhà văn. Trong những tác phẩm kịch nổi tiếng của ông phải kể đến tác phẩm Vũ Như Tô được sáng tác vào năm 1941. Qua tác phẩm này nhà văn thể hiện quan điểm của mình về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cường quyền, giữa nghệ sĩ và nhân dân và thậm chí là văn hóa dân tộc.

Vở kịch là một vở nói về lịch sử gồm có năm hồi, đoạn trích Vĩnh Biệt Cửu Trùng Đài thuộc hồi năm của vở kịch này. Nhân vật chính của kịch là Vũ Như Tô. Ông là một nhà kiến trúc tài giỏi, tính tình cương trực trọng nghĩa khinh tài. Lê Tương Dực là một tên bạo chúa sai Vũ Như Tô xây cửu trùng đài để hắn lấy nơi vui chơi với bọn cung tần mĩ nữ và ăn chơi xa đọa. Vốn tính tình cương trực thẳng thắn Vũ Như Tô đã từ chối sự sai khiến ấy mặc cho sự đe dọa về tính mạng. Thế nhưng Đan Thiềm một cô cung nữ tài sắc bị ruồng bỏ đã khuyên Vũ Như Tô xây cửu trùng đài để cống hiến cho đất nước. Vì ông luôn muốn cống hiến cho đất nước cho nên khi nghe thế ông quyết định xây Cửu Trùng Đài, ông dùng toàn tâm toàn lực để xây dựng. Nhưng chính cái Cửu Trùng Đài ấy đã làm khổ nhân dân khiến họ không thể chịu nổi và quyết tâm nổi dậy. Vũ Như Tô bị giết còn Cửu Trùng Đài bị thiêu dụi hoàn toàn.

Đoạn trích thuộc hồi V diễn ra trong cung cấm. Trong khi Vũ Như Tô vẫn nuôi ước vọng làm nên một công trình nghệ thuật để cống hiến cho đất nước của mình. Nhưng ông không hề biết đó là tiếp tay cho hôn quân ăn chơi xa đọa và làm khổ chính nhân dân. Để xây dưng lên Cửu Trùng Đài ấy biết bao xương máu của nhân dân đã phải đổ. Và kết cục cho người nghệ sĩ không nhận thức được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời cường quyền chính là cái chết. Đây là một đoạn trích vô cùng kịch tính và hấp dẫn.

Mâu thuẫn của đoạn trích này là khi nhân dân không thể chịu nổi nữa bèn đứng lên nổi loạn. Người đứng đầu cho cuộc nổi loạn ấy chính là Trịnh Duy Khản. Đó chính là mâu thuẫn thứ nhất, mâu thuẫn trực tiếp và thực tế. Nhân dân phải sống trong cảnh lầm than đã thế lại còn phải phục vụ cho việc xây dựng Cửu Trùng Đài cho tên vua vô lại ăn chơi hưởng lạc. Điều đó làm sao có thể chịu được. Nhân dân không chỉ mất tiền mất sức mà còn mất cả mồ hôi và xương máu. Vì thế cho nên ở đây có sự mâu thuẫn giữa vua vô lại và nhân dân. Mâu thuẫn kịch ấy được giải quyết bằng một cuộc nổi loạn dẹp sạch cuộc sống xa hoa kết liễu tên vua dâm kia. Khi nhân dân nổi dậy họ đã bắt và giết tên Lê Tương dực sau đó những cung tần mĩ nữ hoàng hậu cũng bị vạ lây mà giết hết. Cuối cùng là Đan Thiềm và Vũ Như Tô họ cũng không tránh khỏi cái chết vì đã làm cho nhân dân khổ cực. Cửu Trùng Đài thì bị thiêu dụi trong ánh mắt tiếc nuối của Vũ Như Tô.

Mâu thuẫn thứ hai trong đoạn trích này chính là mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật thuần túy lâu đời với lợi ích thiết thực của nhân dân trong việc xây Cửu Trùng Đài. Trong tác phẩm ta thấy Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ có tâm và hết lòng vì nghệ thuật. Chính vì thế mà ông luôn muốn cống hiến những công trình nghệ thuật của mình cho đất nước. Thế nhưng là một người nghệ sĩ ông lại không nhận thức được mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống cho nên đã mắc sai lầm và dẫn tới cái chết. Hay Đan Thiềm cô khuyên Vũ Như Tô không hề vì một mục đích nào khác. Cô là một người bạn tri âm tri kỉ với ông nên muốn tốt cho ông mà thôi. Nhưng Đan Thiềm cũng không ý thức được mối quan hệ đó cho nên cũng nhận lấy kết cục đáng buồn.

Cửu Trùng Đài là một công trình nghệ thuật lớn vì thế cho nên nó rất tốn ngân khố của quốc gia. Mà ngân khố quốc gia lại chính là nhân dân làm ra chứ không ai hết. Chính vì thế xây dựng càng lớn thì nhân dân càng khổ nhiều hơn. Không những thế mà họ còn phải trả xương máu cho công trình ấy. Thứ hai Cửu Trùng Đài xây nên chỉ để phục vụ cho vua chúa ăn chơi xa đọa chứ không phải để phục vụ cho nhân dân. Chính vì thế nhân dân hoàn toàn không có một lợi ích nào ở đây. Trong khi đó Vũ Như Tô một người nghệ sĩ tài ba có tâm lại không nhận thức được điều đó. Ông chỉ chú tâm vào xây dựng công trình nghệ thuật vĩ đại của mình cho nên điều đó đã khiến cho công trình nghệ thuật ấy xa rời thực tế cuộc sống và nhận lấy kết quả đáng buồn. Ngay cả khi Đan Thiềm khuyên ông chạy đi không thì sẽ chết nhưng ông vẫn không chạy, ông vẫn tin vào việc làm của mình là đúng và quang minh chính đại. Và cho đến khi ông bị lôi ra pháp trường ông vẫn không nhận ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Ông vẫn không hề biết lí do tại sao mình phải chết. Điều đó là một bi kịch lớn đối với một người nghệ sĩ.

Đoạn trích này có đầy đủ các yếu tố để làm nên một vở kịch hấp dẫn, các xung đột kịch được nhà văn tổ chức lôi cuốn hấp dẫn. Không khí nhịp điệu thì cứ tăng tiến dần dần lên tạo nên một tính chất gay gắt của xung đột kịch. Nhà văn thắt núi sau đó lại mở nút nhưng kết cục vẫn là bi kịch. Qua đây nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống đời thường. Nghệ thuật không thể tách rời cuộc sống.

Xem thêm các bài văn mẫu 8 Cánh diều hay khác: