X

Lịch sử 12 Cánh diều

Giải Lịch Sử 12 trang 98 Cánh diều


Haylamdo biên soạn và sưu tầm lời giải Lịch Sử 12 trang 98 trong Bài 15: Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc Sử 12 Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng trả lời các câu hỏi & làm bài tập Lịch Sử 12 trang 98.

Giải Lịch Sử 12 trang 98 Cánh diều

Câu hỏi trang 98 Lịch Sử 12: Khai thác thông tin, tư liệu và các hình trong mục 5, nêu vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1969).

Lời giải:

- Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh có những đóng góp to lớn đối với việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ở mỗi miền Nam - Bắc và nhiệm vụ chung của cả nước.

+ Đối với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì và chỉ đạo xây dựng Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (9-1960). Nghị quyết nêu rõ: Đại hội này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.

+ Đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1959), xác định phương hướng cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm. Từ năm 1965, khi Mỹ đưa quân trực tiếp tham chiến ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng phân tích tình hình, chỉ đạo toàn dân đánh Mỹ, đưa ra dự báo và thể hiện quyết tâm thắng Mỹ.

+ Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là biểu tượng của sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại, có vai trò to lớn về hoạt động ngoại giao.

▪ Trong các chuyến thăm nước ngoài (Trung Quốc, Liên Xô. Cộng hoà Dân chủ Đức,...), Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước và bạn bè quốc tế, đồng thời giữ vững đường lối độc lập tự chủ của cách mạng Việt Nam.

▪ Để nhân dân thế giới hiểu rõ và đồng tình ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đại diện cho tiếng nói của nhân dân vạch trần tội ác chiến tranh của Mỹ trên cả hai miền Nam - Bắc, đón tiếp bạn bè quốc tế phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, trong đó có nhân sĩ trí thức Mỹ.

Luyện tập 1 trang 98 Lịch Sử 12: Lập bảng tóm tắt về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam (1920 - 1969).

Lời giải:

Giai đoạn

Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh

1911 - 1930

- Tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam

- Chuẩn bị những điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Chủ trì hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam và soạn thảo cho Đảng một Cương lĩnh chính trị đúng đắn, sáng tạo

1930 - 1945

- Xác định đường lối và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc.

- Sáng lập Mặt trận Việt Minh, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.

- Cùng với Trung ương Đảng đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.

- Cùng với Trung ương Đảng nắm bắt thời cơ, kịp thời phát động nhân dân nổi giành chính quyền và trực tiếp lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1945) giành thắng lợi.

- Trực tiếp soạn thảo và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

1954 - 1954

- Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chính phủ đã đề ra và trực tiếp thực hiện nhiều chính sách trên các lĩnh vực: chính trị - ngoại giao; kinh tế, văn hóa – xã hội,… để bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng (1945 – 1946)

- Trực tiếp lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1954)

1954 - 1969

- Lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc

- Chỉ đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, xác định đường lối và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược

- Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là biểu tượng đoàn kết và có vai trò to lớn trong đấu tranh ngoại giao

Luyện tập 2 trang 98 Lịch Sử 12: Lựa chọn và phân tích một vai trò (tự chọn) của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.

Lời giải:

(*) Tham khảo: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam

Từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, phong trào kháng chiến chống Pháp bùng lên và lan rộng trong cả nước. Các cuộc nổi dậy đều được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nhiệt thành và ý chí căm thù giặc Pháp sôi sục. Song, trước sau đều bị thất bại vì chưa có một đường lối kháng chiến rõ ràng. Nhiều phong trào cứu nước do các sĩ phu và văn thân theo ý thức hệ phong kiến. Các phong trào Duy Tân, Đông Du dựa trên lý luận dân chủ tư sản đều bị thực dân Pháp đàn áp và dập tắt. Các tầng lớp nhân dân trong xã hội bị phân hóa sâu sắc, điêu đứng trong cảnh nước mất, nhà tan, bị áp bức về chính trị, bị bóc lột về kinh tế, bị đầu độc về văn hóa, bị tha hóa về con người, bị đọa đày trong đói rách về bệnh tật. Giai cấp cần lao lâm vào số phận nô lệ bi thảm, quyền sống của con người bị chà đạp thảm hại. Xã hội Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành thuộc địa nửa phong kiến. Thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn khai thác tài nguyên và bóc lột dã man của cải và sức lao động của nhân dân ta để làm giàu cho chính quốc. Trước tình cảnh ấy, tiếp nối truyền thống chống ngoại xâm bất khuất của dân tộc, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành, khi đó mới 21 tuổi, đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước với quyết tâm cháy bỏng: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.(1)

Từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Tất Thành đã tận dụng mọi cơ hội để được đến nhiều nước thuộc các đại lục Âu, Á, Phi, Mỹ. Đặc biệt Người đã dừng chân khảo sát ở 3 nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp. Người tranh thủ mọi điều kiện để học hỏi, nghiên cứu các học thuyết cách mạng, hòa mình vào thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản và thuộc địa. Trên cơ sở đó, Người đã rút ra kết luận có tính chất căn bản đầu tiên: “Ở đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị bóc lột, áp bức nặng nề”, và “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”(2). Những nhận biết căn bản đó càng thôi thúc Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc quyết tâm tìm ra phương hướng giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc. Hành trang duy nhất Người mang theo khi lên tàu thủy ra nước ngoài là chủ nghĩa yêu nước - sản phẩm tinh thần cao đẹp của lịch sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Tư tưởng yêu nước của Người vừa kế thừa tinh hoa của chủ nghĩa yêu nước truyền thống, vừa bao hàm một tinh thần đổi mới phù hợp với yêu cầu giải phóng dân tộc và xu thế của thời đại.

Từ sự đồng cảm với các dân tộc cùng cảnh ngộ, Người đã đến với chủ nghĩa quốc tế. Năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ nước Anh trở lại nước Pháp. Được Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường giúp đỡ, Người hăng hái hoạt động chính trị trong Việt kiều và những người lao động Pháp.

Từ những hoạt động thực tiễn trên và nhất là tháng 7 năm 1920 Người đọc “Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lê-nin đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo). Luận cương đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc những băn khoăn về con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc, trả lời câu hỏi ai là người lãnh đạo, lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc… Luận cương đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới quan cộng sản của Nguyễn Ái Quốc. Người đọc đi đọc lại nhiều lần và qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người nhận thấy trong đó con đường giải phóng đất nước khỏi ách thực dân. Về sau, Người nhớ lại: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lê-nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”.(3)

Như vậy, từ khi rời bến cảng Sài Gòn, lênh đênh trên các đại dương, cập bến bốn châu lục, vừa lao động kiếm sống, vừa trải nghiệm, đến giữa tháng 7-1920, tại Pa-ri (Pháp), tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc có sự chuyển biến lớn lao, từ sự đồng cảm với các dân tộc cùng cảnh ngộ, đến với chủ nghĩa quốc tế. Người đã nhìn thấy khả năng thực hiện ba mục tiêu lớn: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Từ thời điểm đó, Nguyễn Ái Quốc theo sát những sự kiện chính trị thế giới đang diễn ra dồn dập, tác động mạnh đến chính trường nước Pháp, đặc biệt là Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (QTCS) và Đại hội I các dân tộc phương Đông. Người tham dự cuộc mít tinh lớn của hàng vạn công nhân tại rạp xiếc ở Pa-ri. Tiếp sau đó, tháng 9-1920, Người theo sát tiến trình Đại hội I các dân tộc phương Đông, nhằm đưa đường lối, chính sách của Đại hội II QTCS vào cuộc sống, mà trước hết là tư tưởng “đoàn kết phương Tây vô sản và phương Đông bị áp bức”. Tư tưởng đó được thể hiện rõ trong khẩu hiệu chiến đấu đưa ra trong Đại hội: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”.

Những sự kiện chính trị trên góp phần củng cố niềm tin vững chắc của Nguyễn Ái Quốc vào V.I. Lê-nin, vào Quốc tế cộng sản và nước Nga Xô-viết, củng cố lập trường và bản lĩnh chính trị của Người. Nguyễn Ái Quốc vững tin đến Đại hội XVIII Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tua và bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế và thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Như vậy, có thể khẳng định, đến đây sự chuyển biến tư tưởng từ đồng cảm với các dân tộc cùng cảnh ngộ đến chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa cộng sản của Nguyễn Ái Quốc đã hoàn tất.

Luận cương của V.I.Lê-nin đã mở ra con đường đưa Nguyễn Ái Quốc đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin và chính Luận cương của Lê-nin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.

Việc tìm ra con đường cứu nước và những chuyển biến trong nhận thức về con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc có ý nghĩa lịch sử to lớn, đó là:

Một là, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, với học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, Nguyễn Ái Quốc đã đặt nền móng cho lý luận Cách mạng Việt Nam trong thời đại mới; chấm dứt khủng hoảng đường lối cứu nước triền miên từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX; tìm thấy đường lối phát triển đúng đắn cho dân tộc, phù hợp với trào lưu tiến hóa chung của nhân loại và xu thế của thời đại.

Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường cho phong trào yêu nước, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, làm cho chủ nghĩa yêu nước vươn lên tầm thời đại, trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, mà sau này biểu tượng sáng chói trong hai cuộc kháng chiến lừng lẫy của dân tộc chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong công cuộc đổi mới đất nước gần 40 năm qua theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Ba là, với việc tìm ra con đường cứu nước, phát triển của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đóng góp to lớn, thiết thực chuẩn bị cho việc mở ra một giai đoạn phát triển mới của phong trào cách mạng vô sản nói chung, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới và Châu Á nói riêng.

Với lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, ý chí quyết tâm giành độc lập dân tộc, nhận thức đầy đủ hiện thực xã hội, vận mệnh lịch sử đặt ra đối với dân tộc Việt Nam và những nhân tố mới của thời đại, Nguyễn Tất Thành đã quyết định xuống tàu, bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân. Người vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để tìm thấy con đường giải phóng dân tộc đúng đắn, hợp quy luật tất yếu của lịch sử giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản. Chủ tịch HỒ CHÍ MINH - Lãnh tụ trọn đời hy sinh cho đất nước và hạnh phúc nhân dân. Một nhân cách lớn, một tấm gương về sự ham học hỏi, lòng nhân hậu, bác ái, là biểu tượng cao đẹp đầy tự hào của dân tộc Việt Nam trước bạn bè quốc tế năm châu.

---------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, H 2006, tập 1, tr.112

2. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2000, tập 1, tr.266.

3. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2000, tập 10, tr.127.4. V.I.Lê-nin, Toàn tập, 1978, Nxb Tiến bộ, Mat-xcơ-va, tập 41, tr.199.

Vận dụng 3 trang 98 Lịch Sử 12: Sưu tầm tư liệu về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam (1945 - 1969). Giới thiệu những tư liệu đó với thầy cô và bạn học.

Lời giải:

(*) Tư liệu tham khảo: Vai trò to lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp

Tổng kết thực tiễn cách mạng đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc. Trong đó, vai trò của Hồ Chí Minh là vô cùng to lớn. Cùng với Trung ương Đảng, Người đã hoạch định, tổ chức và lãnh đạo quân dân ta thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến chống Pháp. Đường lối đó được xác định với nội dung cơ bản : “Kháng chiến, kiến quốc”, “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh".

Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã cho rằng “vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân.” Trong bài “Toàn dân kháng chiến” viết ngày 5-11-1946, sau khi phân tích quy mô và ảnh hưởng của cuộc đấu tranh, Người cho rằng “muốn kháng chiến lâu dài để đi tới thắng lợi cuối cùng, cần phải động viên hết thảy mọi lực lượng…”. Trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, ngày 19-12-1946, tư tưởng của Người về kháng chiến toàn dân được thể hiện rất rõ ràng: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm, dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.

Căn cứ vào chiến lược kháng chiến toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tập hợp được đông đảo các tầng lớp xã hội trong Mặt trận dân tộc thống nhất, từng bước xây dựng một lực lượng chính trị hùng hậu và lực lượng vũ trang nhân dân lớn mạnh, gồm ba thứ quân, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Cũng căn cứ vào chiến lược này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định “Mỗi công dân là một chiến sĩ. Mỗi làng là một chiến hào”, quyết tâm đánh bại thực dân Pháp xâm lược.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiến hành kháng chiến toàn dân, đồng thời phải thực hiện toàn diện kháng chiến. Vì, thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một cách toàn diện, chúng ta phải kháng chiến chống lại chúng một cách toàn diện trên các mặt trận: quân sự, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, ngoại giao. Người nói: “Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”.

Để phát huy sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện nhất quán đường lối toàn diện kháng chiến, Người yêu cầu: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái, bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ đều phải cần trở nên một chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá. Thực hiện khẩu hiệu: Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến”. Người cho rằng, “trong kháng chiến, quân sự là việc chủ chốt”. Tuy nhiên, chỉ có đánh địch trên chiến trường thôi thì chưa đủ mà còn phải biết kết hợp với các mặt trận đấu tranh khác nữa. Ngay khi bước vào kháng chiến toàn quốc, Người kêu gọi vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa xây dựng hậu phương, vừa chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, vừa tiến hành đấu tranh ngoại giao, vừa thực hiện binh vận, vừa xây dựng nền văn hoá, giáo dục kháng chiến, bồi dưỡng nhân dân, vừa động viên, tổ chức nhân dân tham gia các đoàn thể kháng chiến, xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Để mở rộng khối đoàn kết toàn dân, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 5-1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành lập. Truyền thống yêu nước của toàn dân tộc được khơi lên mạnh mẽ, nhân dân ta tỏ rõ sự đoàn kết, nhất trí chung quanh Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Đó là sức mạnh vô địch để chống thù trong, giặc ngoài. Ngày 31-5-1946, Người lên đường thăm nước Pháp, với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp. Trong thời gian ở Pháp, Người đã tuyên truyền làm sáng tỏ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân Pháp, nâng cao uy tín của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế. Chính dịp này, một số trí thức, nhà khoa học Việt kiều được Người vận động, thuyết phục và cảm hoá đã tình nguyện theo Bác về nước cống hiến tài năng, trí tuệ cho cách mạng, cho sự nghiệp kháng chiến, như: kỹ sư Phạm Quang Lễ, Võ Quý Huân; bác sĩ Trần Hữu Tước...

Trên cơ sở đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện và tương quan lực lượng địch - ta, đồng thời nắm chắc quy luật chuyển hoá của tương quan đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương “kháng chiến trường kỳ”. Trong văn kiện “Công việc khẩn cấp bây giờ” viết ngày 5-11-1946, Người nhấn mạnh: “Cuộc kháng chiến sẽ rất gay go cực khổ. Dù địch thua đến 99%, nó cũng rán sức cắn lại. Vì nó thất bại ở Việt Nam, thì toàn bộ cơ nghiệp đế quốc nó sẽ tan hoang. Vì vậy nó sẽ đem rất nhiều viện binh… Nó sẽ tàn phá khủng bố rất dữ dội… Nhưng ta phải hiểu: Lực lượng địch chỉ có từng ấy thôi. Ta kiên quyết chống chọi cho qua giai đoạn “chớp nhoáng” đó, thì địch sẽ xẹp, ta sẽ thắng”.

Tư tưởng kháng chiến truờng kỳ được Người nhiều lần phân tích, giải thích lý do và luôn chứa đựng sự lạc quan, niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng. Người nói đại ý rằng: trường là dài, tức là đánh bao giờ địch bại, địch “cút”, thế mới là trường. Vì địch âm mưu đánh chớp nhoáng. Chúng muốn đánh mau, thắng mau, giải quyết mau, thì ta nêu lên khẩu hiệu: Trường kỳ kháng chiến… Thế là ngay từ lúc đầu chiến lược ta đã thắng chiến lược địch. Một lý do nữa Người nêu ra là: “Kháng chiến phải trường kỳ, vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta nghèo, ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị toàn diện của toàn dân”.Trên cơ sở phân tích lợi hại của ta và địch khi thực hiện chiến lược trường kỳ kháng chiến, Người cho rằng: “Nếu chiến tranh kéo dài, hao binh tổn tướng, chúng sẽ thất bại. Vậy ta dùng chiến lược trường kỳ kháng chiến, để phát triển lực lượng, tăng thêm kinh nghiệm. Ta dùng chiến thuật du kích, để làm cho địch hao mòn, cho đến ngày ta sẽ tổng phản công để quét sạch lũ chúng”. Tuy nhiên, kháng chiến trường kỳ không có nghĩa là kéo dài vô thời hạn mà phải nỗ lực vượt bậc, vừa tiêu diệt địch, vừa bồi dưỡng phát triển lực lượng của ta, càng đánh ta càng mạnh, địch càng yếu, đánh bại từng âm mưu chiến lược của địch, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Cùng với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh phải “tự lực cánh sinh”. Người cho rằng “Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời lại phải tự lực cánh sinh… Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.Theo Người, tự lực cánh sinh là chính, kết hợp với sự giúp đỡ quốc tế là hết sức quan trọng. Vì vậy, trong kháng chiến chống Pháp, Người đã nêu cao ý chí tự lực tự cường, đồng thời khi có điều kiện, làm mọi việc để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của chính phủ và nhân dân các nước anh em, của nhân loại tiến bộ, kể cả nhân dân Pháp. Tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế nhưng không ỷ lại, không để ảnh hưởng đến tinh thần độc lập tự chủ của đất nước. Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh như một người cầm lái bình tĩnh, sáng suốt, mưu trí, dũng cảm và dày dạn kinh nghiệm, đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thác ghềnh nguy hiểm. Với đường lối chính trị đúng đắn, biết phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược đối với kẻ thù, Hồ Chí Minh chính là “linh hồn” của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Không những thế, Người còn là vị tư lệnh tối cao của lực lượng vũ trang, và vai trò của Người được thể hiện nổi bật trong các chiến dịch lớn. Những quan điểm, tư tưởng chiến lược quân sự của Người được quán triệt, thực hiện sáng tạo trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để lại dấu ấn sâu sắc, đậm nét trong lịch sử chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.

Với đường lối kháng chiến “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo quân dân cả nước từng bước huy động được sức mạnh của dân tộc vào cuộc chiến đấu và giành thắng lợi cuối cùng trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.Với vai trò to lớn như trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng thời, những quan điểm, tư tưởng, đường lối chiến lược của Người vẫn tiếp tục là cơ sở cho những thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau này.

Ngày nay, chúng ta đang ra sức thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện mới. Đó là, Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, đã và đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tăng cường hợp tác, hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu, có cả thời cơ, vận hội và khó khăn, thách thức đan xen. Hơn thế, lại trong tình hình các thế lực thù địch đang tăng cường các hoạt động chống phá bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ. Xây dựng, phát triển đất nước là nhiệm vụ trọng tâm, là yêu cầu bức thiết nhưng phải gắn chặt với bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN. Trong quá trình hợp tác, hội nhập, phát triển, nhất là trong lộ trình thực hiện cam kết với WTO cần thấu suốt quan điểm của Đảng, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, phát huy nội lực là chính, đồng thời tranh thủ ngoại lực và thông qua hợp tác, hội nhập để biến ngoại lực thành nội lực, không ngừng tạo thế và lực mới của đất nước. Thiết nghĩ, đó cũng là quá trình vận dụng sáng tạo quan điểm, đường lối của Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “kháng chiến, kiến quốc”, “ toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính” trong kháng chiến chống Pháp vào điều kiện lịch sử hiện nay nhằm phát huy nội lực, tranh thủ thời cơ quốc tế thuận lợi thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cũng vì thế, việc tiếp tục nghiên cứu, thấu hiểu vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với cương vị lãnh tụ của cách mạng, của dân tộc trong kháng chiến chống Pháp nói riêng, trong sự nghiệp giữ nước nói chung, không chỉ có ý nghĩa về mặt phương pháp luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Tư tưởng của Người luôn là kim chỉ nam của những quan điểm, đường lối của Đảng trong mỗi thời kỳ cách mạng. Theo đó, trong tình hình hiện nay, chúng ta phải giữ vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững chắc. Đồng thời, kiện toàn, củng cố, nâng cao hiệu lực quản lý của các cấp chính quyền; cảnh giác với những phương thức, thủ đoạn mới trong chiến lược “diễn biến hòa bình “ của địch, quyết không dành cho chúng một sơ hở nhỏ nào để thực hiện âm mưu kích động, chia rẽ sự đoàn kết thống nhất dân tộc, sự toàn vẹn lãnh thổ. Mặt khác, chúng ta phải tích cực đấu tranh, khắc phục những thiếu sót trong quản lý, xây dựng đất nước, những sơ hở, sai lầm trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách, nhất là chính sách về dân tộc, tôn giáo; đấu tranh một cách kiên quyết, có hiệu quả với tệ nạn quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy điều hành các cấp; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, động viên toàn dân tham gia xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ngày càng vững chắc. Không vì hội nhập kinh tế quốc tế mà lơi lỏng trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Lời giải bài tập Lịch Sử 12 Bài 15: Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc hay khác:

Xem thêm lời giải bài tập Lịch Sử lớp 12 Cánh diều hay nhất, ngắn gọn khác: