Giải Lịch Sử 12 trang 45 Chân trời sáng tạo
Haylamdo biên soạn và sưu tầm lời giải Lịch Sử 12 trang 45 trong Bài 7: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) Sử 12 Chân trời sáng tạo hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng trả lời các câu hỏi & làm bài tập Lịch Sử 12 trang 45.
Giải Lịch Sử 12 trang 45 Chân trời sáng tạo
Câu hỏi trang 45 Lịch Sử 12: Phân tích ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).
Lời giải:
♦ Đối với Việt Nam
- Chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược và ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỉ ở Việt Nam.
- Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
♦ Đối với thế giới
- Giáng đòn nặng nề vào tham vọng nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai;
- Góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ;
- Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Luyện tập trang 45 Lịch Sử 12: Lập bảng thống kê những thắng lợi quân sự tiêu biểu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946-1954) theo gợi ý sau vào vở:
Giai đoạn |
Thắng lợi quân sự tiêu biểu |
1946-1950 |
|
1951-1953 |
|
1953-1954 |
|
Lời giải:
Giai đoạn |
Thắng lợi quân sự tiêu biểu |
1946-1950 |
- Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 (1946 - 1947). - Chiến dịch Việt Bắc thu - đông (1947) - Chiến dịch Biên giới thu - đông (1950) |
1951-1953 |
- Các chiến dịch ở trung du đồng bằng Bắc Bộ (1950-1951); - Chiến dịch Hoà Bình (1951 - 1952); - Chiến dịch Tây Bắc (1952); - Chiến dịch Thượng Lào (1953),... |
1953-1954 |
- Cuộc Tiến công chiến lược trong Đông - Xuân 1953 - 1954, với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ (1954). |
Vận dụng trang 45 Lịch Sử 12: Sưu tầm tư liệu từ sách, báo, internet về sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa đối với Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), sau đó giới thiệu với thầy, cô và các bạn trong lớp của em.
Lời giải:
(*) Tư liệu tham khảo 1: Sự viện trợ, giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Ngày 18/01/1950 Trung Quốc tuyên bố công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 30/01/1950 Liên Xô tuyên bố công nhận Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau đó, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây là các sự kiện rất quan trọng, không chỉ tăng cường vị thế nước ta trên trường quốc tế mà còn tạo điều kiện để Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác hỗ trợ mạnh mẽ cuộc kháng chiến của Nhân dân Việt Nam.
Khoảng giữa tháng 2/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh có chuyến thăm (không chính thức) Liên Xô. Người đề nghị Liên Xô viện trợ cho Việt Nam vật chất, nhất là vũ khí, đạn dược. Liên Xô quyết định thực hiện sự giúp đỡ Việt Nam thông qua Trung Quốc. I.V. Stalin đã thống nhất với Mao Trạch Đông "... chúng tôi đánh xong Đại chiến thế giới, còn rất nhiều vũ khí chưa dùng hết, chúng tôi có thể chở sang Trung Quốc, các đồng chí giữ lấy, trong đó có những thứ phù hợp với chiến tranh Việt Nam, các đồng chí có thể chở một số sang Việt Nam".
Sau chiến thắng Biên giới (Thu Đông 1950), hơn 750 km biên giới Việt - Trung và 6 tỉnh phía bắc được giải phóng, căn cứ địa Việt Bắc được nối thông với Trung Quốc, các nước bạn có điều kiện trực tiếp giúp Việt Nam.
Từ năm 1950, Liên Xô viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam một số mặt hàng có ý nghĩa chiến lược. Số hàng đầu tiên gồm pháo cao xạ 37 mm, một số xe vận tải mô-tô-lô-va và thuốc quân y quá cảnh qua Trung Quốc sang Việt Nam(1). Năm 1952, ta đề nghị Liên Xô viện trợ 10 tấn thuốc sốt rét (ký ninh), Liên Xô cấp tốc gửi ngay 500 kg. Cũng năm 1952, ta đề nghị Liên Xô viện trợ pháo cao xạ 37 mm cho 4 trung đoàn (144 khẩu và 10 cơ số đạn/khẩu), 72 khẩu pháo 76,2 mm và 10 cơ số đạn/khẩu, 200 khẩu súng phòng không 12,7 mm và 10 cơ số đạn/khẩu và đào tạo giúp 50-100 du học sinh. Liên Xô đã đáp ứng kịp thời các yêu cầu của Việt Nam.
Tính chung, từ 5/1950 - 6/1954, Việt Nam nhận được 21.517 tấn hàng viện trợ quốc tế (gồm 4.253 tấn vũ khí đạn, 73 tấn hàng quân giới, 5.069 tấn hàng vận tải, 9.590 tấn gạo, 1.505 tấn quân trang, 157 tấn hàng quân y 200 tấn hàng thông tin, 40 tấn hàng công binh; 715 xe ô tô vận tải, 24 khẩu pháo 105 mm và 1.000 viên đạn, 48 khẩu pháo 75 mm và 32.484 viên đạn, 76 khẩu pháo cao xạ 37 mm và 51.620 viên đạn) từ Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác với tổng trị giá 54 triệu Rúp. Trong số vũ khí đạn, toàn bộ pháo cao xạ 37 mm (76 khẩu và đạn đi cùng), toàn bộ hỏa tiễn Kachiusa (12 dàn 6 nòng và đạn đi cùng), toàn bộ súng tiểu liên K50 và đạn đi cùng, 685/715 chiếc ôtô vận tải và một số lượng lớn thuốc kháng sinh, ký ninh là do Liên Xô viện trợ. Còn các loại vũ khí bộ binh khác, pháo 105 mm, 75 mm và lương thực là do Trung Quốc viện trợ
Trong điều kiện rất khó khăn, thiếu thốn của Việt Nam khi tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, thì viện trợ quốc tế nói chung và của Liên Xô nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng nâng cao tiềm lực quân sự, sức chiến đấu của Quân đội ta. Vũ khí, trang bị của Liên Xô góp phần quan trọng nâng cao khả năng tiến công và sức cơ động của bộ đội ta trong các chiến dịch lớn. Đặc biệt, 12 dàn hỏa tiễn, pháo cao xạ 37 mm... do Liên Xô viện trợ đã góp phần tăng thêm sức mạnh tiến công của Quân đội trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.
(*) Tư liệu tham khảo 1: Sự viện trợ, giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Sau khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, mặc dù còn khó khăn về mọi mặt nhưng Trung Quốc đã dành cho cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta viện trợ thiết thực. Cuối tháng 1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật sang Trung Quốc qua đường biên giới Cao Bằng. Người đi Bắc Kinh gặp gỡ lãnh đạo Trung Quốc để bàn về vấn đề viện trợ Việt Nam kháng chiến chống Pháp, sau đó đi Matxcova gặp gỡ Stalin và Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đang ở thăm Liên Xô. Trong buổi làm việc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyên soái Stalin, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã khẳng định viện trợ cho Việt Nam: “Việt Nam cần trang bị 10 đại đoàn để đánh thắng Pháp, trước mắt hãy trang bị cho 6 đại đoàn có mặt ở miền Bắc. Việt Nam có thể đưa ngay một số đơn vị sang nhận vũ khí trên đất Trung Quốc. Tỉnh Quảng Tây sẽ là hậu phương trực tiếp của Việt Nam”. Qua hội đàm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với lãnh đạo Trung Quốc sau khi từ Matxcova trở lại Bắc Kinh, Trung Quốc đồng ý để Quảng Tây là nơi tiếp nhận viện trợ, chữa trị thương binh và mở trường đào tạo cho Việt Nam. Từ đó, viện trợ của Trung Quốc đã một góp phần không nhỏ trong việc làm thay đổi cục diện chiến tranh ở nước ta. Archimedes Patti, một nhà quan sát Mỹ, trong hồi ký viết: “Đến năm 1950, Mao đã ở trong thế có thể giúp đỡ ông Hồ qua đường biên giới phía Bắc Việt Nam. Ông Hồ không còn bị cô lập như trước, ông đã có rất nhiều đồng minh, trước hết là Trung Quốc và sau đó là Liên Xô, một sân bóng mới đã bắt đầu”.
Theo thỏa thuận trên, ngay tháng 4-1950, hai Trung đoàn của Đại đoàn 308 sang Mông Tự, Vân Nam, tiếp đó một Trung đoàn của Đại đoàn 312 sang Hoa Đồng, Quảng Tây nhận vũ khí. Trung Quốc cũng nhanh chóng chở vũ khí sang Cao Bằng để trang bị tiếp cho hai trung đoàn khác đang phải đối phó với quân địch trên chiến trường. Để giải quyết đảm bảo hậu cần của bộ đội Việt Nam trên đất Trung Quốc và tăng cường công tác vận chuyển vật tư viện trợ Việt Nam, ngày 6-8-1950, Tổng cục Hậu cần Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã thành lập văn phòng ở Nam Ninh. Ngoài ra, còn có hai Tiểu đoàn công binh và trường sĩ quan lục quân sang học tập, huấn luyện tại Trung Quốc. Những đơn vị sang Trung Quốc ngoài việc trang bị lại vũ khí còn được huấn luyện thêm về chiến thuật, đặc biệt là kỹ thuật đánh bộc phá. Theo hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, các chiến sĩ đã luyện tập ở Trung Quốc ba tháng, được bắn đạn thật nên tiến bộ rất nhanh.
Nhờ có sự giúp đỡ của Trung Quốc, trang bị vũ khí của quân đội ta được cải thiện đáng kể. “Những năm qua, mỗi chiến sĩ chỉ mơ ước có một khẩu súng trong tay. Bây giờ không chỉ có súng mà đạn được cũng khá dồi dào. Sức mạnh hỏa lực của trung đoàn bộ binh ta đã hoàn toàn thay đổi so với trước”. Tính đến tháng 6-1950, số cán bộ sang Trung Quốc học tập là 3.100 người (trong đó 650 cán bộ học bổ túc trung và sơ cấp, 1.200 học đào tạo, chỉ huy bộ binh sơ cấp, còn lại học về binh chủng như pháo binh, công binh...
Theo thống kê của Việt Nam, cho đến hết năm 1950, chúng ta đã tiếp nhận của Trung Quốc 3.983 tấn hàng viện trợ, trong đó có 1.020 tấn súng đạn (kể cả số súng đạn các đơn vị bộ đội Việt Nam sang Trung Quốc huấn luyện rồi đem về nước), 161 tấn quân trang, 20 tấn thuốc và dụng cụ quân y, 71 tấn hàng quân giới, 30 xe vận tải Mô lô tô va, 2.634 tấn gạo. Số hàng viện trợ này tuy chỉ chiếm 18,5% tổng số vật chất mà quân ta sử dụng trong năm 1950 nhưng đã góp phần trang bị và làm tăng sức mạnh chiến đấu của một số đơn vị chủ lực trên chiến trường chính Bắc Bộ. Tuy nhiên, viện trợ vũ khí cho ta gặp nhiều khó khăn do Trung Quốc đã đưa quân tình nguyện sang chiến đấu ở Triều Tiên. Nguồn vũ khí của quân ta lúc này một phần dựa vào Trung Quốc nhưng phần chủ yếu vẫn là lấy của địch và trong nước tự sản xuất.
Trong hai năm 1951-1952, viện trợ của các nước XHCN, trong đó có Trung Quốc cho Việt Nam được duy trì thường xuyên và tương đối đều đặn. Từ tháng 7-1952 đến tháng 1-1953, Trung đoàn 45, Trung đoàn pháo binh hạng nặng đầu tiên của quân đội ta được huấn luyện ở Mông Tự (Vân Nam, Trung Quốc); Trung đoàn pháo cao xạ 367 thành lập ngày 1-4-1953, sau 6 tháng huấn luyện ở Tân Dương (Quảng Tây, Trung Quốc), cuối năm 1953 được điều tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Liên Xô giúp trang bị vũ khí, Quân Giải phóng Trung Quốc đảm nhiệm về đào tạo cán bộ, nhân viên kỹ thuật, huấn luyện cho hai trung đoàn này.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng ta cũng nhận được sự giúp đỡ quý báu của Trung Quốc. Trung Quốc đã chi viện cho chiến dịch 3.600 viên đạn pháo 105 ly, đó là số đạn đi theo 24 khẩu pháo viện trợ đưa về Việt Nam từ cuối năm 1953, chiếm 18% tổng số đạn pháo sử dụng trong chiến dịch. Sau chiến tranh Triều Tiên, đạn pháo 105mm của Trung Quốc cũng khan hiếm song trước yêu cầu cấp bách của chiến dịch, Trung Quốc đã chuyển thêm cho quân ta 7.400 viên đạn 105mm, vì điều kiện vận chuyển khó khăn, số đạn này không kịp đưa vào phục vụ chiến dịch. Trong những ngày cuối chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung Quốc còn giúp thêm một tiểu đoàn DKZ 75mm và 12 dàn hỏa tiễn (cachiusa) 6 nòng. Đây là hỏa lực mạnh nhất mà ta có được lúc bấy giờ và kịp thời tham gia đợt tổng công kích cuối cùng diễn ra chiều ngày 6-5-1954, phát huy tác dụng rất lớn.
Viện trợ lương thực của Trung Quốc cũng góp phần giải quyết khó khăn về lương thực cho các chiến dịch của ta. Trong những năm 1949, 1950 khi nhân dân Trung Quốc ở vùng Hoa Nam còn đói kém, Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã nuôi dưỡng hàng chục ngàn cán bộ, chiến sĩ Việt Nam trên đất nước mình, viện trợ cho Việt Nam 2.634 tấn gạo. Tuy nhiên, từ năm 1951 trở đi, nước ta đã cố gắng huy động lương thực trong nước để giảm dần lượng gạo viện trợ. Từ cuối năm 1950 đến giữa năm 1953, Trung Quốc phải dốc sức tham gia kháng Mỹ viện Triều. Vì vậy, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, lương thực chủ yếu được huy động từ trong nước, chúng ta chỉ còn nhờ Trung Quốc giải quyết 1.700 tấn gạo, chiếm 6,52% tổng nhu cầu.
Ngoài trang bị vũ khí, giúp đỡ huấn luyện, viện trợ lương thực, Trung Quốc còn cử đoàn cố vấn quân sự và chính trị sang Việt Nam. Để giữ bí mật, đoàn cố vấn quân sự lấy tên là Đoàn công tác Hoa Nam gồm 79 người do đồng chí Vi Quốc Thanh làm trưởng đoàn. Ngày 9-8-1950 đoàn khởi hành từ Nam Ninh, ngày 12-8 đến Quảng Uyên, Cao Bằng. Đây là lần đầu tiên ĐCS Trung Quốc cử một đoàn cố vấn quân sự ra nước ngoài. Trước khi đoàn lên đường, các đồng chí lãnh đạo như Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức đã gặp gỡ, đưa ra chỉ thị, tư tưởng chỉ đạo đối với đoàn là phải phát huy tinh thần chủ nghĩa quốc tế, phải đoàn kết với các đồng chí Việt Nam, phải xuất phát từ thực tế của Việt Nam, phải giúp Việt Nam theo con đường tự lực cánh sinh, phải phát huy tính thần gian khổ phấn đấu. Đảng Cộng sản Trung Quốc giao cho đoàn 2 nhiệm vụ: Một là, giúp đỡ Việt Nam đánh thắng trận, đuổi thực dân Pháp xâm lược; hai là, giúp đỡ Việt Nam xây dựng quân đội chính quy. Chủ tịch Mao Trạch Đông nhấn mạnh: “Toàn thể các đồng chí trong đoàn cố vấn phải coi sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam là sự nghiệp của chính mình”... Ngoài đoàn cố vấn quân sự, Trung Quốc còn cử động chí Trần Canh (nguyên Phó Tư lệnh cánh quân Tây Nam, Tư lệnh quân khu Vân Nam) cùng một số cán bộ quân sự, trực tiếp làm cố vấn trong chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950.
Thực hiện nhiệm vụ của Đảng, Chính phủ Trung Quốc giao phó, các cố vấn quân sự Trung Quốc đã sát cánh cùng quân ta trong suốt cuộc kháng chiến. Trong khoảng giữa năm 1953-1954, khi Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng ta chọn Tây Bắc, theo sát chiến trường, kịp thời cố vấn trong các vấn đề chuẩn bị hậu cần, chuẩn bị chiến trường. Cố vấn quân sự Trung Quốc đã giúp quân đội ta về công tác chỉ huy tham mưu, về huấn luyện quân sự và truyền đạt những kinh nghiệm của Quân giải phóng Trung Quốc. Trên cơ sở những kinh nghiệm này, vận dụng và phát triển sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của chiến trường nước ta, quân đội ta đã thực hiện một cách thành công chiến thuật “đánh điểm diệt viện” mà tiêu biểu là trong chiến dịch Biên giới 1950, các giải pháp đảm bảo hậu cần...
Mặc dù có lúc, có công việc chưa giải quyết phù hợp với thực tế, vận dụng một số kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc chưa linh hoạt do chưa nắm hết tình hình Việt Nam, nhưng đoàn cố vấn Trung Quốc đã đóng góp không nhỏ vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ghi nhận công lao này, ngày 2-9-1953, Hồ Chủ tịch dẫn đầu đoàn lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta đến nơi ở của đoàn cố vấn Trung Quốc để trao Huân chương Hồ Chí Minh cho các đồng chí Vi Quốc Thanh, La Quý Ba, biểu dương tinh thần quốc tế vô sản của các đồng chí trong đoàn cố vấn, cảm ơn sự giúp đỡ mà Đảng Cộng sản, Chính phủ Trung Quốc đã dành cho Việt Nam.
Lời giải bài tập Lịch Sử 12 Bài 7: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954) hay khác: