SBT Ngữ văn 10 Bài 8: Đọc trang 40, 41, 42, 43, 44, 45 - Chân trời sáng tạo


Haylamdo sưu tầm và biên soạn lời giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Bài 8: Đọc trang 40, 41, 42, 43, 44, 45 sách Chân trời sáng tạo hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 10.

Giải SBT Ngữ văn 10 Bài 8: Đọc trang 40, 41, 42, 43, 44, 45 - Chân trời sáng tạo

Bài tập trang 40 SBT Ngữ Văn 10 Tập 2 Chân trời sáng tạo:Đọc văn bản dưới đây và trả lời các câu hỏi:

Tôi thích làm vua

Nguyễn Quang Sáng

Tôi sinh ra trên một cù lao giữa sông Tiền. Nói là cù lao nổi lên giữa con sông nhưng cũng lớn lắm – cù lao có đến ba làng: Mỹ Tân, Mỹ Phú, Mỹ Hòa. Ba làng có ba cái chợ, chẳng thua ai. Mỗi làng có một cái trường dù một cây mái cũng là trường.

Cù lao của tôi thua nơi khác là không có xe hơi, nhưng có xe ngựa, xuồng ghe thì không đâu bằng. Tàu không có, nhưng ngày nào lũ nhỏ cũng lao xuống thấy tàu chạy lên chạy xuống. Cái thú vui của lũ nhỏ chúng tôi là nhìn sóng và lúc tắm thì được nhoi sóng mỗi khi có một con tàu chạy qua bến. Cái mà dân cù lao tôi thấy thiếu nhất là không được xem hát.

Ai muốn xem hát phải xuống xuồng băng qua sông, nghe đâu hồi tôi chưa đẻ, có người mê hát đến nỗi chị chìm xuồng chết trôi. Có lẽ cù lao tôi không có gánh hát mà người ta chê nó bằng hai câu ca dao:

Mỹ Tân, Mỹ Phú, Mỹ Hòa

Ba làng nhập lại không ra cái làng nào

Cả năm mới có một gánh hát về một lần vào dịp cúng đình. Gánh đó về là do công của chú tôi. Nghe ba tôi kể, chú tôi sanh non ngày non tháng, lớn lên bị èo uột, bịnh hoạn luôn. Thấy vậy ông bà mới cho chú học chữ nho để hốt thuốc. Trước là trị cho mình, sau đó là làm phước cho bà con. Lớn lên, bỏ nhà đi hoang. Nhờ biết chữ nho, đọc được sách Tàu, biết nhiều tuồng tích, rồi trở thành thầy tuồng. Hồi đó, tôi không được nghe tiếng soạn giả và đạo diễn, chỉ nghe có tiếng thầy tuồng, chú tôi vừa viết vừa tập cho đào kép và dàn dựng, làm luôn nghề đạo diễn. Gánh đó về là vì nể vì thương cho chú tôi, chớ ai về chi cái đất cù lao, lúc nào cũng sóng gió.

Khi gánh hát về, nước của bốn bề cù lao như cũng nổi sóng vui theo. Già trẻ bé lớn ai cũng nôn nao với tiếng trống rao hàng của chiếc xe ngựa chạy qua đường. Xe ngựa chạy trước, lũ nhỏ chúng tôi cắm đầu cắm cổ đuổi theo như sợ mất tiếng trống. Cái vui kế đó là, trước khi xem hát, chúng tôi rủ nhau đi xem quảng cáo, đi xem quần áo, mũ mão họ phơi trên mui ghe như là cố ý xem trước vậy!

Rạp hát là nhà lồng chợ. Kệ thịt, kệ vải đều được dọn ra ngoài. Người ta lấy lá che kín hết bốn bên.

Tôi là cháu của thầy tuồng, tôi được đánh trống. Chừng sắp sửa kéo màn thì tôi với lũ nhỏ hàng xóm lăn trống vào rạp, khỏi phải mất tiền mua vé.

Cái vui cuối cùng là, sau khi gánh hát nhổ neo đi, lũ nhỏ tụi tôi lại lấy lá dừa kết thành mão, lấy xơ dừa làm râu, lấy giấy màu dán vào quần áo, phân vai cho nhau, hát lại cái tuồng mình dược xem, cũng:

- Như ta đây là …

- Quân bay!

- Bẩm hoàng thượng!

- Này ái khanh …

Vân vân … Cứ vậy mà diễn cho đến ngày cúng đình năm sau.

Năm đó, gánh nhổ neo đi rồi nhưng chú tôi còn nán lại vài ngày chơi với bà con. Tôi bèn nhờ chú tôi dạy hát.

- Được! Tụi con có mấy đứa?

- Dạ chú muốn mấy đứa cũng có. – Tôi lẹ miệng đáp lại.

- Chú sẽ soạn tuồng cho cọn lại để mấy cháu hát.

Tụi nhỏ đứng xung quanh chú cũng nhảy cửng lên. Chú nhìn một lượt qua mặt chúng tôi:

- Tuồng này có một ông vua; hai ông quan – một nịnh, một trung; một anh hề; một ái khanh; một thằng quân. Tụi con ở đây có sáu đứa, tuồng cũng có sáu vai, vậy là vừa đủ. Bây giờ mỗi đứa đóng thử một vai, vai nào đóng hay thì sẽ đóng luôn nghe chưa?

Chú dạy chúng tôi thay nhau đóng vai nịnh, vai trung, vai hề, vai quân, còn ái khanh là một bé bên nhà vai ái khanh nhất định là của nó. Tôi chờ hoài mà không thấy chú tập vai vua. Tôi thắc mắc mà không dám hỏi. Trong lũ nhỏ chúng tôi có thằng Đực là thằng khờ nhứt. Thằng Đực là con của dì tôi. Dì tôi sanh năm một, sanh liền ba đứa chẳng nuôi được đứa nào. Sanh đến đứa thứ tư, sợ nó theo anh chị nên lựa cái tên xấu xí mà đặt cho nó. Nó là con trai nên đặt tên nó là Đực. Cái tên cũng như con người của nó, lúc nào cũng ngồi đực ra nhìn tụi tôi chơi đùa. Nó chơi cái gì cũng dở, nên ít được cho chơi. Nó khờ quá, biết thân, nó ngồi đực ra nhìn để được vui theo. Nó không biết hát cũng không biết múa, không biết buồn cũng không biết vui, chẳng biết rồi chú tôi sẽ cho nó đóng vai nào.

Sau buổi tập, tối đến, khi còn có hai chú cháu, chú tôi hỏi tôi:

- Hồi chiều tập qua mấy vai, con thích vai nào?

Nghĩ mình là con cháu, chú sẽ cưng hơn mấy đứa khác, tôi mạnh dạn:

- Con thích làm vua.

- Làm vua? – Chú tôi như giật mình, mở tròn mắt nhìn tôi như muốn xem lại tôi là đứa nào vậy. Nghĩ sao chú lại cười, nụ cười như trùm lên mặt mũi tôi, rồi chú lắc đầu:

- Không được, vai vua hãy để cho thằng Đực.

Đến lúc tôi lại ngạc nhiên, nhìn lại chú như nhìn một người xa lạ, và phản ứng không một chút đắn đo:

- Thằng Đực là thằng ngu! Nó làm vua sao được.

Chú đưa tay vỗ nhẹ lên đầu tôi:

- Chính vì vậy nó mới làm vua. Chú hỏi con, sao con thích làm vua?

Tôi muốn làm vua vì: trước nhất mặc áo con rồng, được ngồi trên cao, ghế ngồi gọi là ngai vàng, trong tay có một cục gì đó (chắc là nặng lắm) mỗi lần đập xuống bàn thì rung rinh cả thiên hạ, nhứt hô bá ứng, muốn xử ai thì xử, muốn gì được nấy, muốn có ái khanh thì có ái khanh, muốn có rượu thì có quan hầu … Tôi nghĩ nhiều nhưng chỉ nói:

- Tại con thích!

- Để chú giảng cho con nghe nhé.

Chú nói, nếu đóng vai nịnh thì phải biết luồn lọt, phải biết lời ong tiếng ve để làm xiêu lòng bề trên, để đổi trắng thay đen, để được vinh thân, phì gia. Làm được vậy đâu có dễ, thằng Đực không sao làm được. Nếu đóng vai trung thì phải trung thực, dám nói thẳng với vua lời hay lẽ phải, cuộc đời phải chịu nỗi oan làm cho người ta thương, người ta khóc, thằng Đực không làm nổi. Làm cho người ta khóc đã khó, làm cho người ta cười lại càng khó hơn. Làm cho người ta cười để người ta quên đi cái cuộc đời cơ cực, đó là giây phút cũng có ích cho đời, thằng Đực nó ngồi đực ra đó ai cười nổi. Còn vai quân, cái vai coi là hạng chót cũng không phải dễ. Làm quân cũng không phải dễ. Làm quân phải biết quỳ, biết bẩm, biết ca, thằng Đực làm được gì?

Còn làm vua, chỉ có việc ngồi sẵn đó, màn kéo ra thì thấy mặt nó rồi, chỉ có việc vuốt râu, cầm cái ấn gõ xuống bàn, rồi “quân bây” với “ái khanh”. Vậy là vừa với cái sức của thằng Đực, phải không?

Nghe chú tôi giảng giải, tôi không còn cãi vào đâu. Vai vua không thể ai khác được ngoài thằng Đực, đúng lắm, nhưng vẫn thấy thằng Đực có số hên.

Sau này đi bộ đội, tôi là một “cây văn nghệ” của anh em. Tôi hay sắm tuồng, diễn kịch ở những nơi đóng quân. Nhờ đó khi chuyển ngành tôi được cấp trên cho đi học nghề đạo diễn. Vào nghề đạo diễn tôi lại nhớ lời của chú tôi, tôi coi đó như bài học vỡ lòng trong cuộc đời làm sân khấu – và càng ngày tôi càng thấm thía hơn ai là người thực cho cuộc đời, ai là người cho sân khấu.

Tiếc thay, bây giờ quanh tôi vẫn còn những người thích làm vua.

(Trích trong tập truyện ngắn Dân chơi, Tôi thích làm vua,

NXB Hội Nhà văn, 2005)

Câu 1 trang 44 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Tóm tắt các sự kiện chính được kể trong văn bản trên.

Trả lời:

Những sự kiện chính cần nêu: giới thiệu về cù lao nơi có ba ngôi làng, về đoàn hát về diễn ở cù lao, về người chú nghệ sĩ và việc tập tuồng cho đám trẻ trong làng, về cuộc đối thoại và cách phân vai của người chú và nhân vật chính, về những suy ngẫm của nhân vật về triết lí của người chú khi nhân vật đã trưởng thành, …

Câu 2 trang 44 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Những dấu hiệu nào giúp bạn nhận biết Tôi thích làm vua là văn bản truyện?

Trả lời:

Những dấu hiệu giúp nhận biết được Tôi thích làm vua là một văn bản truyện vì. Câu chuyện được nhắc đến ở đây là sự việc cụ thể, là sự việc xảy ra trong đời sống, có liên quan đến một số người nào đó. Hơn hết câu chuyện còn có khởi đầu, diễn biến và kết thúc rõ ràng vì vậy có thể kết luận văn bản Tôi thích làm vua là một câu chuyện.

Câu 3 trang 44 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Bạn hãy cho viết chủ đề, thông điệp của văn bản truyện trên. Dựa vào đâu để bạn xác định được chủ đề, thông điệp của văn bản?

Trả lời:

- Nhan đề “Tôi thích làm vua” gợi lên câu chuyện đóng kịch của nhóm trẻ em ở cù lao; qua các sự kiện chính là người chú lập một nhóm kịch cho trẻ em ở đây và việc phân vai; những câu văn, từ ngữ quan trọng như: “Tôi chờ hoài mà không thấy chú tập vai vua”, “Con thích làm vua”, đoạn giảng giải của người chú về các loại vai trong đó có vai vua, …

Từ đó, có thể thấy chủ đề của văn bản truyện có thể như sau:

+ Câu chuyện học tuồng của một nhóm trẻ em ở cù lao sông Tiền.

+ Câu chuyện học tuồng của một nhóm trẻ em ở cù lao sông Tiền và sự quan trọng của các vai trong một vở tuồng, đặc biệt là vai vua.

- Từ chủ đề đã phân tích và chỉ ra ở trên, có thể thấy qua hai hình tượng nghệ thuật người chú và nhân vật “tôi”, qua những đối thoại mang tính triết lí của hai chú cháu, chúng ta nhận ra thông điệp của tác phẩm có thể là:

+ Triết lí về vai vua trong sân khấu và ngoài đời của tác giả.

+ Những suy ngẫm của tác giả về những vai tuồng trên sân khấu và liên hệ thực tế.

Câu 4 trang 44 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Theo bạn, văn bản trên được kể theo điểm nhìn của ai? Cách kể đó có tác dụng gì?

Trả lời:

Điểm nhìn

Điểm nhìn của nhân vật chính trùng với điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ nhất.

Người kể chuyện

Người kể chuyện ngôi thứ nhất.

Tác dụng

Giúp nội dung câu chuyện được kể chi tiết, sát với dụng ý tác giả.

Người kể chuyện là một đứa trẻ và sau đó trưởng thành, điều này giúp cho thông điệp và tư tưởng của tác phẩm được truyền đạt, chiêm nghiệm tốt hơn.

Câu 5 trang 44 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Phát biểu cảm nhận của bạn về nhân vật người chú và cho biết: Xét trong tính chỉnh thể của văn bản, nhân vật người chú và cho biết: Xét trong tính chỉnh thể của văn bản, nhân vật người chú này có vai trò như thế nào trong việc thể hiện chủ đề và thông điệp của văn bản truyện?

Trả lời:

* Nhân vật người chú:

- Xuất thân: từ cù lao sông Tiền trở thành một thầy tuồng, trở về cù lao một thời gian.

- Hành động: tập kịch cho các bạn trẻ, phân chia các vai.

- Đối thoại: đoạn đối thoại với người cháu về việc phân vai.

- Suy nghĩ: thể hiện qua đoạn đối thoại về tính chất, vai trò các loại vai.

Đặc biệt là từ những đối thoại, diễn giải của người chú về tính chất, đặc điểm của những vai diễn, suy rộng ra ngoài đời, bạn có thể thấy được vai trò chủ đạo của nhân vật này trong việc thể hiện chủ đề và thông điệp của văn bản.

Câu 6 trang 44 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Cuộc trò chuyện giữa hai nhân vật “tôi” và người chú về việc phân vai trong vở tuồng trong văn bản trên giúp bạn hiểu thêm điều gì về tính cách của mỗi nhân vật?

Trả lời:

- Người chú: am hiểu, uyên bác đồng thời giàu kinh nghiệm sống;

- Người cháu: ngây thơ, hồn nhiên, chưa có nhiều kinh nghiệm sống.

Câu 7 trang 44 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Điền vào bảng dưới đây một đặc điểm mà bạn cho là nổi bật của các yếu tố: người kể chuyện, nội dung câu chuyện, điểm nhìn, lời của người kể chuyện trong tương quan với lời của nhân vật trong hai văn bản Tôi thích làm vua và văn bản Đất rừng phương Nam (trích) (làm vào vở)

Các yếu tố

Đất rừng phương Nam (trích)

Tôi thích làm vua

Người kể chuyện



Nội dung câu chuyện



Điểm nhìn



Lời của người kể chuyện



Trả lời:

Các yếu tố

Đất rừng phương Nam (trích)

Tôi thích làm vua

Người kể chuyện

Tôi

Tôi

Nội dung câu chuyện

Câu chuyện đi lấy mặt ở vùng U Minh Hạ

Câu chuyện về việc phân vai trong một vở tuồng

Điểm nhìn

Điểm nhìn của nhân vật trùng với điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ nhất.

Điểm nhìn của nhân vật chính trùng với điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ nhất

Lời người kể chuyện

Người kể chuyện ngôi thứ ba

Người kể chuyện ngôi thứ nhất.

Câu 8 trang 45 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 2: Nhận xét về cách kể chuyện của hai nhà văn Nam Bộ (Đoàn Giỏi và Nguyễn Quang Sáng) trong hai văn bản Đất rừng phương Nam (trích) và Tôi thích làm vua.

Trả lời:

Nhà văn Đoàn Giỏi và Nguyễn Quang sáng đều là những cây bút viết về con người và thiên nhiên mảnh đất Nam Bộ. Mặc dù cùng sáng tác trên một đề tài nhưng mỗi nhà văn lại có những đặc sắc riêng để lại những ấn tượng riêng biệt trong lòng người đọc.

Xem thêm các bài giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác: