SBT Ngữ văn 10 Bài 2: Tiếng Việt trang 24, 25 - Chân trời sáng tạo


Haylamdo sưu tầm và biên soạn lời giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Bài 2: Tiếng Việt trang 24, 25 sách Chân trời sáng tạo hay nhất, chi tiết sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 10.

Giải SBT Ngữ văn 10 Bài 2: Tiếng Việt trang 24, 25 - Chân trời sáng tạo

Câu 1 trang 24 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Chỉ ra cách đánh dấu phần bị tỉnh lược được sử dụng trong hai văn bản Đăm Săn đi chinh phục Nữ thần Mặt Trời (SGK Ngữ văn 10, tập một) và Thử thách ngọt ngào. Trong các trường hợp trên, nếu không đánh dấu phần tỉnh lược bằng phần lược dẫn thì bạn có thể thay thế bằng cách đánh dấu nào?

Trả lời:

- Cách đánh dấu phần bị tỉnh lược được sử dụng trong hai văn bản “Đăm Săn đi chinh phục Nữ thần Mặt Trời” và “Thủ thách ngọt ngào”: […] và đặt kí hiệu tỉnh lược này ở vị trí phù hợp.

- Với cước chú (2) ở cuối văn bản bản Đăm Săn đi chinh phục Nữ thần Mặt Trời, bạn có thể dùng một móc vuông […] đặt ở cuối văn bản và như thế văn bản không cần cước chú (2) như hiện có nữa.

Câu 2 trang 24 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Tác giả bài viết Ngôi nhà truyền thống của người Ê-đê trong SGK Ngữ văn 10, tập một đã trích dẫn mấy lần, các trích dẫn đã được chú thích rõ ràng hay chưa? Hãy trao đổi với các bạn ý kiến của mình

Trả lời:

- Văn bản Ngôi nhà truyền thống của người Ê-đê có ba lần sử dụng trích dẫn nguyên văn, lần đầu trích dẫn lời của Tiến sĩ Nguyễn Duy Thiệu, Phó Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, hai lần sau trích dẫn lời của bà Đàm Thị Hợp, cán bộ Phòng Bảo tàng ngoài trời, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

- Các đoạn trích dẫn này đã nêu rõ được họ tên, chức danh nghề nghiệp, cơ quan công tác của người được trích dẫn. Lời trích nguyên văn được bỏ trong ngoặc kép, sau dấu hai chấm, tách biệt với lời thuyết minh của tác giả bài viết, theo quy cách trích dẫn của văn bản thông tin.

Câu 3 trang 24 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn văn dưới đây là so sánh hay ẩn dụ. Dựa vào đâu để bạn khẳng định như vậy? Nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật ấy trong đoạn văn

          Dịu hiền thay mặt đất, khi nó hiện lên trước mắt những người đi biển bị 

Pô-dê-i-đông đánh tan thuyền trong sóng cả, gió to! Họ bơi, nhưng rất ít người thoát khỏi biển khơi trắng xóa mà vào được bờ. Mình đầy bọt nước, những người sống sót mừng rỡ bước lên đất liền mong đợi. Pê-nê-lốp cũng vậy, được gặp lại chồng nàng sung sướng xiết bao!

(Trích Thử thách ngọt ngào, sử thi Ô-đi-xê)

Trả lời:

Đoạn văn có đủ các yếu tố của một phép so sánh: cái dùng để so sánh (cảm xúc của những người đi biển khi trông thấy đất liền, được đặt chân lên mặt đất sau chặng đường dài nguy hiểm) (B); cái được so sánh (cảm xúc của Pê-nê-lốp khi “được gặp lại chồng nàng”) (A); thuộc tính so sánh (dịu hiền thay, mừng rỡ, sung sướng xiết bao); từ ngữ so sánh (cũng vậy).

→ Kết luận: Đoạn văn sử dụng thủ pháp so sánh (theo kiểu sử thi của Hô-,e-rơ).

- Tác dụng của biện pháp so sánh trong đoạn văn.

+ Hóa ra, ở quê nhà, để giữ được sự thủy chung vẹn tròn tình nghĩa, xứng đáng với người chồng bản lĩnh phi thường, Pê-nê-lốp cũng đã phải vượt qua biết bao sóng to gió lớn chẳng thua kém Ô-đi-xê trong suốt 20 năm; 

+ Nỗi vất vả gian lao càng lớn, niềm vui sướng ngày gặp mặt càng lớn 

Câu 4 trang 24 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Chỉ ra điểm khác biệt về đặc điểm của biện pháp so sánh trong các trường hợp sau:

a. Cũng như người đi câu ngồi trên mỏm đá cao, từ đầu cần câu dài tung xuống biển cái sừng bò hoang đựng mồi cho cá nhỏ rồi quăng lên bờ những con cá câu được, còn giãy đành đạch; các bạn đồng hành của tôi bị lôi vào đá cũng giãy lên như vậy, và Xi-la ăn thịt họ ở cửa hang, trong khi họ đang kêu gào, hoảng hốt giơ tay về phái tôi cầu cứu. Đó chính là cảnh thương tâm nhất mà tôi thấy được trong thời gian lênh đênh trên mặt biển tìm đường.

(Trích Gặp Ka-ríp và Xi-la, sử thi Ô-đi-xê)

b. Nhà dài như một hơi chiêng, sàn hiên rộng như một hơi ngựa chạy.

(Trích sử thi Đăm Săn)

c. Tôi tớ mang của cải về nhiều như ong đi chuyển nước, như vò vẽ đi chuyển hoa, như bầy trai gái đi giếng làng cõng nước.

(Trích sử thi Đăm Săn)

Trả lời:

- Đoạn (a) là dạng “so sánh dài”

- Đoạn (b) là dạng so sánh mà hai vế rất khác nhau về loại

- Đoạn (c) là dạng so sánh chuỗi.

Câu 5 trang 24 SBT Ngữ Văn lớp 10 Tập 1: Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) có sử dụng trích dẫn hoặc đánh dấu phần bị tỉnh lược, nói về một trong hai nội dung sau:

a. Đặc điểm tính cách của một trong những nhân vật sử thi hay thần thoại đã học.

b. Tình cảm của con người đối với quê hương, gia đình.

Trả lời:

a.  Câu chuyện về những người anh hùng sử thi chưa bao giờ giảm nhiệt về độ hấp dẫn mà nó mang lại. Bởi mỗi vị anh hùng lại mang đến cho người đọc một cách nhìn mới đầy ngưỡng mộ và ngạc nhiên. Nhưng, có một phẩm chất mà hầu hết các anh hùng đều có, thậm chí là cần thiết đó là sự điềm tĩnh. Điềm tĩnh ở đây không có nghĩa là giải quyết mọi tình huống xảy ra một cách chậm chạp mà chính phẩm chất này sẽ giúp họ có được những lối suy nghĩ thông suốt hơn, tránh trường hợp quá nóng vội dẫn đến thất bại, nhất là khi gặp chuyện hiểm nguy. Khi Ô-đi-xê được cảnh báo trước về những hiểm nguy về các nàng Xi-ren, tuy tâm trạng khá bồn chồn và lo lắng nhưng chàng vẫn điềm tĩnh để đưa ra hướng giải quyết cho mọi người. “(...) Tôi lần lượt nút chặt tai cho các bạn đồng hành, còn họ thì buộc tay chân tôi lại. Tôi đứng dưới cột buồm, và họ lấy dây thừng trói tôi vào đấy. Thế rồi họ ngồi xuống, đập mái chèo xuống mặt biển ngầu bọt xám”. (Trích Gặp Ka-ríp và Xi-la, sử thi Ô-đi-xê). Ô-đi-xê chính là anh hùng sử thi điển hình cho phẩm chất nói trên. Nhờ đó, chàng cùng những người bạn đồng hành có thể đưa ra cách giải quyết tốt nhất và vượt qua sự quyến rũ của các nàng Xi-ren.

Trong đó:

- Phần bị tỉnh lược: “(...) Tôi lần lượt nút chặt tai cho các bạn đồng hành, còn họ thì buộc tay chân tôi lại. Tôi đứng dưới cột buồm, và họ lấy dây thừng trói tôi vào đấy. Thế rồi họ ngồi xuống, đập mái chèo xuống mặt biển ngầu bọt xám”. à được đánh dấu bằng cách dùng kí hiệu dấu chấm lửng đặt trong dấu ngoặc đơn.

- Chú thích trích dẫn: (Trích Gặp Ka-ríp và Xi-la, sử thi Ô-đi-xê).

b. 

“Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi”.

(Trích “Quê hương” – Đỗ Trung Quân)

Quê hương có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người. Quê hương, xứ sở như một mảnh tình con theo ta đến suốt cuộc đời. Dù có đi đâu thì quê hương cũng luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong tâm thức của mỗi người. Quê hương - hai tiếng đơn sơ mà cũng thật ấm áp và gần gũi vô ngần. Quê hương chính là nơi chôn nhau cắt rốn của ta, là nơi nuôi ta lớn lên với biết bao kỉ niệm chẳng thể phai nhòa. Có một điều không thể phủ nhận rằng bất kể đi tới đâu người ta cũng luôn nhớ về quê hương và hướng về mái ấm gia đình. Quê hương dạy ta biết lớn khôn và trưởng thành dần từ những ngây thơ, vụng dại của ngày bé. Quê hương cho ta những năm tháng tuổi thơ tuyệt vời mà suốt hành trình trưởng thành ta không bao giờ tìm lại được. Đó cũng chính là lí do vì sao quê hương trở nên thân thương và ấm áp đến lạ thường. Quê hương ấy, những con người quen thuộc ấy sẽ theo dấu chân ta trên suốt quãng đời của mình và rồi trở thành dòng suối mát lành tắm mát và gột rửa tâm hồn ta trước những muộn phiền, lo toan của cuộc sống.

- Phần trích dẫn: 

“Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi”.

(Trích “Quê hương” – Đỗ Trung Quân)

Xem thêm các bài giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 10 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác: