SBT Ngữ văn 10 Bài tập 4 trang 15 - Kết nối tri thức
Haylamdo biên soạn và sưu tầm lời giải sách bài tập Ngữ văn lớp 10 Bài tập 4 trang 15 sách Kết nối tri thức hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ văn 10.
Giải SBT Ngữ văn 10 Bài tập 4 trang 15 - Kết nối tri thức
Bài tập 4 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Đọc lại văn bản Chữ bầu lên nhà thơ trong SGK Ngữ văn 10, tập một (tr. 82 - 84) và trả lời các câu hỏi:
Câu 1 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Nhan đề của văn bản đã gợi cho bạn những suy nghĩ gì?
Trả lời:
– Chữ: không chỉ hiểu đơn giản là vỏ âm thanh mà quan trọng đó chính là ngôn ngữ được sử dụng, tổ chức một cách nghệ thuật.
– Chữ bầu lên nhà thơ: là khẳng định vai trò của ngôn ngữ đối với nhà thơ. Ngôn ngữ góp phần: chuyên chở điệu hồn thi nhân; khẳng định tài năng, phong cách của người nghệ sĩ; tôn vinh vị thế nhà thơ.
– Ngôn ngữ là chất liệu, yếu tố đầu tiên của văn học. Ngôn ngữ thơ là tinh hoa tối cao của ngôn ngữ, là kiến trúc ngôn từ đặc biệt.
– Bản chất của thơ là trữ tình. Tiếng lòng của nhà thơ chỉ có thể được vang lên, được hữu hình hóa thành câu chữ, âm thanh, nhịp điệu.
– Lao động thơ thực chất là lao động chữ nghĩa, đòi hỏi tài năng, sự sáng tạo và tâm huyết của nhà thơ.
Câu 2 trang 15 SBT Ngữ văn lớp 10 Tập 1: Bạn thích nhất ý kiến nào được nêu trong văn bản? Vì sao?
Trả lời:
Văn bản tuy ngắn nhưng nêu được nhiều ý kiến rất thú vị của chính tác giả hay của người khác về thơ và về nhà thơ. Có thể chọn một ý kiến bất kì khiến bạn thích thú và cần nêu được lí do khiến bạn có cảm giác như vậy, chẳng hạn:
- Hình thức diễn đạt độc đáo, gây ấn tượng ngay tức khắc.
- Nội dung ý kiến mang đậm tính đối thoại, buộc phải chú ý.
- Ý kiến có tính chất khác thường, khiến ta phải nghĩ lại, nghĩ mới về một đối tượng ngỡ đã quá quen thuộc, không còn gì phải nói nữa.
Trả lời:
Hầu hết các luận điểm chính trong văn bản được xây dựng dựa trên cảm hứng đối thoại với những quan điểm và ý kiến khác về thơ, nhà thơ, lao động thơ, chữ trong thơ. Bạn có thể chọn một trong các luận điểm đó để phân tích. Trong khi phân tích, phải chỉ ra được thực chất của vấn đề được tác giả đưa ra để xem xét lại và lí do của việc xem xét đó. Ví dụ, với luận điểm: “Tôi rất biết những câu thơ hay đều kì ngộ, nhưng là kì ngộ kết quả của một thành tâm kiên trì, một đa mang đắm đuối, làm động lòng quỷ thần, chứ không phải may rủi đơn thuần” cần phải nói được các ý:
- Quan niệm “những câu thơ hay đều kì ngộ” xuất hiện từ xưa và được nhiều người tán đồng, nhấn mạnh cách sáng tác trông cậy chủ yếu vào yếu tố ngẫu hứng, bột phát, đôi khi may mắn và nhà thơ lúc này như nhận được sự trợ giúp của thần linh.
- Tác giả không bác bỏ yếu tố “kì ngộ” (cuộc gặp gỡ lạ lùng gây cảm xúc hân hoan) nhưng ông cho rằng không nên nghĩ một cách hời hợt về những cái thường được nói tới khi tán đồng quan niệm này như “thần hứng; “thần trợ” Từ kinh nghiệm của bản thân và kinh nghiệm của nhiều nhà thơ khác mà tác giả quan sát được, ông cho rằng cuộc “kì ngộ” ấy chỉ đến một cách có điều kiện, khi nhà thơ đã trải qua nhiều trăn trở, vật vã, tìm cách làm nổi bật được điều thường xuyên ám ảnh mình. Như vậy, không thể sáng tác thơ theo kiểu cầu may, chỉ ngồi chờ thành quả mà không phải “kiên trì, “đa mang “đắm đuối” gì cả.
Trả lời:
Ở đoạn cuối phần 2, tác giả đã triển khai quan niệm “Chữ bầu lên nhà thơ” theo cách:
- Dẫn ý kiến của các nhà thơ, nhà văn lớn trên thế giới (Ét-mông Gia-bét - Edmond Jabès, Gít-đơ - Gide, Pét-xoa - Pessoa), xem như đó là sự hậu thuẫn tích cực cho cách lí giải vấn đề của mình.
- Diễn giải ý kiến của Ét-mông Gia-bét theo hướng bám sát ý tưởng đã được đề cập từ nhan đề và phần đầu văn bản. Nếu trong phát biểu của mình, Ét-mông Gia-bét gần như chỉ nói đến vai trò của sáng tạo ngôn từ trong việc xác định danh vị đích thực của nhà thơ, thì Lê Đạt lại phát triển thêm, cho rằng mỗi lần sáng tạo tác phẩm mới lại một lần nhà thơ phải vật lộn với chữ. Rõ ràng, “nhà thơ” không phải là danh vị được tạo một lần cho mãi mãi. Nó có thể bị tước đoạt nếu nhà thơ không chịu khổ công lao động với ngôn từ mỗi khi viết một bài thơ mới.
Trả lời:
Văn bản chủ yếu được viết bằng những câu văn ngắn và xuống hàng liên tục. Mặc dù vậy, người đọc vẫn cảm nhận được một mạch văn, mạch ý thông suốt. Có thể chỉ ra một số lí do khiến văn bản tạo được ấn tượng này:
- Tất cả những điều được viết ra đều cho thấy đó là kết quả của một quá trình nghiền ngẫm lâu dài, có tính hệ thống về thơ với toàn bộ các vấn đề, khía cạnh liên quan.
- Trữ lượng thông tin trong từng câu văn khá dồi dào vì tác giả chọn cách viết nén chặt, cô đúc, gợi nhiều liên tưởng, so sánh. Người biết phát triển các thông tin trong ấy sẽ nhận ra ngay mạch kết nối giữa các câu, các ý bề ngoài tưởng chừng rời rạc.