X

Soạn văn 8 Kết nối tri thức

Top 20 Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: tiếng cười trào phúng


Haylamdo biên soạn và sưu tầm tổng hợp trên 20 bài văn trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội (ý nghĩa của tiếng cười trong đời sống): tiếng cười trào phúng hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 20 Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: tiếng cười trào phúng

Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: tiếng cười trào phúng - mẫu 1

Xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX đã đánh dấu sự mục ruỗng của xã hội phong kiến từ trong ra ngoài, kéo theo đó là sự xuất hiện của những “quái thai xã hội” – những kiểu người dị dạng, giả dối, đạo đức giả, chà đạp lên những giá trị truyền thống tốt đẹp. Những kiểu người này chính là đối tượng đả kích chính của bút pháp châm biếm. Bằng cái nhìn sắc xảo bao quát cuộc sống, ngòi bút châm biếm Hồ Xuân Hương trở nên giàu sức chiến đấu khi đã vạch trần, tố cáo, đả kích đủ mọi tầng lớp tiêu cực trong xã hội.

Ngòi bút ấy hướng đến trước hết là giai cấp thống trị, cụ thể là bọn vua quan phong kiến. Sự suy tàn của xã hội phong kiến có gốc rễ từ sự thối nát, mục ruỗng từ bọn giai cấp thống trị. Đó là những tên vua ăn chơi sa đọa, không màng đến nhân dân. Đó là bọn quan tham ô, vô lại, làm nhũng nhiễu cuộc sống của người dân vô tội.

Cái cười cợt của Hồ Xuân Hương với bọn vua chúa, quả thực rất sâu cay:

Mười bảy hay là mười tám đây
Cho ta yêu dấu chẳng dời tay.
Mỏng dày từng ấy, chành ba góc
Rộng hẹp dường nào, cẵm một cay
Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,
Yêu đêm chưa phi lại yêu ngày.
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy.
Chúa dấu vua yêu một cái này.

(Vịnh cái quạt II)

Thủ pháp song quan gắn với yếu tố cái tục đã tỏ ra là một thủ pháp châm biếm xuất sắc. Ở đây, những cánh cửa ẩn nghĩa hiện ra, hình thành trong tâm trí người đọc hai hình ảnh: một hình ảnh của cái quạt giấy, một hình ảnh cơ thể người thiếu nữ. Mười bảy hay mười tám, ấy là số nan của quạt giấy, nhưng cũng là ẩn dụ cho tuổi xuân của người thiếu nữ. “Cay” lại là cái suốt của quạt giấy, hải đầu có mảnh kim loại (nhài quạt) hình tròn để chốt các nan lại ở hai nan cái, nhưng cũng gợi lên những liên tưởng về cơ quan sinh dục của con người. Đến đây người đọc không khỏi có cái cười khoái trá. Hóa ra, cái vua thích, chỉ là cái thứ “mỏng dày từng ấy, chành ba góc”, cũng là cái “Chành ra ba góc da còn thiếu/Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.” trong bài Vịnh cái quạt I. Cách diễn đạt “Chúa dấu vua yêu” với sự khẳng định “một cái này” đầy sắc sảo, bén nhọn. Vua chúa chỉ yêu một thứ ấy, có thèm để tâm đến những thứ khác đâu? Trong mắt chúa, trong mắt vua, giang sơn, xã tắc, cũng chẳng thể bằng cái vật mỏng da thừa thịt ấy! Thế chẳng phải là mục ruỗng, là suy đồi hay sao? Mục ruỗng, suy đồi từ tận gốc rễ.

Mỗi xã hội đều cần một hệ tư tưởng để làm công cụ cho giai cấp thống trị. Trải qua hơn ba thế kỉ, hệ tư tưởng Nho giáo của xã hội phong kiến cũng đã bộc lộ cả những mặt mạnh, mặt yếu của mình. Đến thời kì Hồ Xuân Hương sống, hệ tư tưởng Nho giáo đã sụp đổ từ tận gốc, bởi chính những kẻ rao giảng, truyền bá nó. Bọn hiền nhân quân tử đã phạm một cách trắng trợn vào những đạo nghĩa thánh Hiền. Sự rao giảng của chúng trở thành thói đạo đức giả đáng khinh. Và tất nhiên, ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương không bỏ qua chúng:

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc lỏng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm,
Một mạch Đào Nguyên suối chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.

(Thiếu nữ ngủ ngày)

Bài thơ trước hết là sự tôn vinh vẻ đẹp cơ thể nữ. Đó là thứ vẻ đẹp căng tràn sức sống, thể hiện sự trân trọng và nhận thức sâu sắc về giá trị người nữ. Cái hay của Hồ Xuân Hương là dựa vào cái vẻ đẹp đáng trân trọng ấy để tạo ra một thứ tình huống nghịch lý, trớ trêu, thử thách bọn “quân tử hiền nhân”. Và rõ ràng, khi vương vào bẫy, cái điệu bộ của kẻ quân tử thật buồn cười:

“Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt

Đi thì dở ở cũng không xong”

Thơ Hồ Xuân Hương là thơ Việt hóa tối đa, mỗi khi sử dụng từ Hán Việt thì thường có hàm ý mỉa mai. Ở đây, chữ “quân tử” càng trang trọng bao nhiêu, ngạo nghễ bấy nhiêu, khi đặt vào tình huống này, lại càng nhục nhã, ê chề bấy nhiêu. Hiền nhân quân tử đầu đội trời chân đạp đất theo như sách Thánh hiền, lại “dùng dằng đi chẳng dứt” – điệu bộ lấm lét như một tên trộm. Câu thơ như cái nhìn cười cợt sắc bén của Hồ Xuân Hương khi đã đánh trúng vào “tim đen” của chúng, lí giải được cái tâm tính tầm thường của chúng. Tình thế này là do ai? Chẳng phải do chính thói đạo đức giả của chúng hại chúng đấy sao? Quả là nữ sĩ họ Hồ đã ra một cú “gậy ông đập lưng ông” hết sức cao tay, tài tình.

Bên cạnh bọn “hiền nhân quân tử” đạo đức giả, ngòi bút Hồ Xuân Hương còn nhắm đếm một đối tượng khác cũng thuộc giới trí thức Nho học: Bọn học trò dốt. Chính sách cho phép dùng tiền để mua chức vị của triều đình, “cứ tứ phẩm trở xuống, ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc, còn những người chân trắng mà nộp 2800 quan thì được bổ tri phủ, 1800 quan thì được bổ tri huyện” (Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim), đã khiến cho việc giáo dục, thi cử thời kì này trở nên hỗn loạn. Chỉ cần có tiền là có thể mua được chức, quyền, đồng tiền chiếm thế thượng phong thâu tóm tất cả, các giá trị đạo đức bị chà đạp, bọn quan lại vì thế càng nhũng nhiễu dân lành, nhất là bọn quan hoạn. Cũng trong tình cảnh thi cử rối ren ấy, người có tài thì thì bị đánh rớt oan, còn bọn bất vài nhưng có tiền thì được xướng danh bảng vàng. Chính điều này đã làm xuất hiện một loại người “quái thai” trong xã hội: Bọn học trò dốt, dốt nát nhưng lại tự cao tự đại, vẫn cứ tự mãn vào con chữ của mình, tự mãn rằng mình là rường cột nước nhà. Với loại người này, Hồ Xuân Hương vừa ghét, vừa coi thường. Nhóm bài thơ “Mắng học trò dốt” đã thể hiện rõ cái nhìn khinh khi của nữ sĩ với lũ học trò ngu dốt nhưng kiêu căng, ngạo mạn.

Trong các giai thoại tương truyền về Hồ Xuân Hương, có ý kiến cho rằng bài “Mắng học trò dốt – I” ra đời khi Hồ Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, đang lững thững bên bờ hồ Tây thì thấy mấy thần khóa bước rảo lên theo sát ở đằng sau. Rồi các thầy giở giọng chớt nhả ra trêu ghẹo nàng. Có thầy lại hứng trí tung cả chữ nghĩa ra nữa. hồ Xuân Hương thấy họ trêu ghẹo thì vẫn im lặng, nhưng đến khi nghe cái thơ thẩn nửa mùa ấy thì không nhịn được nữa, nàng mới quay lại, đọc dồn cho các thầy một bài thơ rằng:

“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!”

Bấy giờ, các thầy khóa nghe giọng thơ thì biết ngay là Hồ Xuân Hương. Riêng thầy đọc thơ lúc nãy thì thẹn chín người.

Bài “Mắng học trò dốt - II” cũng ra đời trong một hoàn cảnh thú vị không kém. Cũng một lần đi thăm chùa Trấn Quốc, Hồ Xuân Hương nhìn lên trên vách chuông, thấy bài thơ của một anh học trò nào đó đề lên. Câu kẹo ý tứ chán mớ đời. Thế mà cũng vác bút, vạch hàng để khoe ngu với khách vãng lai. Chẳng nói chẳng rằng, cô đề luôn một bài thơ vào khoảng trống bên cạnh:

“Dắt díu nhau lên trước cửa đền
Cũng đòi học nói, nói không nên.
Ai về nhắn nhủ phường lòi tói,
Muốn sống đêm vôi quét trả đền.”

Điểm chung đặc biệt giữa hai bài thơ đó là sự ứng tác gần như tức thời, “xuất khẩu thành thơ” của nữ sĩ. Đó là tài năng thiên phú, nhưng đồng thời đó cũng là sự bùng phát của cảm xúc khinh bỉ, coi thường đối với đối tượng châm biếm. Trong những bài thơ này, Hồ Xuân Hương luôn xuất hiện như một vị bề trên, xưng “chị”, với giọng điệu xách mé, khinh khi của một kẻ ở vị trí cao hơn. Trong mắt bà, lũ học trò dốt chẳng qua chỉ là “lũ ngẩn ngơ”, “phường lòi tói”, cái thơ văn chữ nghĩa của chúng chẳng qua là trò trẻ con, ngựa non háu đá “Ong non ngứa nọc châm hoa rữa/Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!”, chẳng qua chỉ là thứ học đòi kém cỏi “Cũng đòi học nói, nói không nên”. Bài thơ ngắn gọn, xúc tích, ứng khẩu thành thơ, ấy vậy mà giọng điệu ngạo nghễ, cái nhìn khinh khi của một kẻ có tài chiếu xuống bọn bất tài, cũng sắc bén và có sức đả thương như dao, kiếm, khiến đối tượng châm biếm nhục nhã, ê chề, nhưng đành tâm phục, khẩu phục.

Là một cái tôi khao khát sống mãnh liệt, Hồ Xuân Hương ghét cay ghét đắng những kẻ đạo đức giả, kìm hãm quyền tự do của con người như bọn “hiền nhân quân tử”, đồng thời, nàng cũng ghét cả những kẻ tự tách mình ra khỏi đời sống, hay nói đúng hơn, là lấy cớ đi tu để tách mình ra khỏi đời sống, nhưng bên trong thì vẫn đầy những ham muốn đồi bại, dung tục, làm xấu mặt tôn giáo mà mình đang phụng sự. Về đề tài sư hổ mang, tiếng thơ Hồ Xuân Hương cũng có những dòng cười cợt gay gắt, chua cay. Nàng đã tài tình dựng lại một bức tranh chốn tu hành hỗn tạp, rối loạn, không ra thể thống gì:

“Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.”

Món đồ dâng lên cũng kiếng thì bày la liệt như thể món hàng ngoài chợ. Người tu hành thì không có dáng vẻ thanh tịnh của kẻ chân tu, mà lại thập thò, lén lút, nấp sau lưng “sáu bảy bà”. Đặc biệt không gian hỗn độn được đặc tả tài tình ở hai câu thơ cuối:

“Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha”

Tiu cảnh, chũm chọe là hai thức nhạc cụ cổ truyền của Việt Nam. Tiu Cảnh là nhạc khí tự thân vang của dân tộc Việt, gồm 2 chiếc thanh la cỡ nhỏ làm bằng đồng thau, đường kính khoảng 10 cm, một chiếc thành thấp, một chiếc thành cao, với hai âm cao thấp cách nhau quãng nǎm đúng. Tiu cảnh được treo trong hai vòng tròn của một chiếc khung có tay cầm bằng gỗ. Khi biểu diễn nhạc công tay trái cầm tiu, tay phải cầm que tre có mấu gõ vào mặt thau tạo ra âm thanh cao, vang, lảnh lót. Tiu cảnh tham gia trong ban nhạc chầu vǎn, dàn bát âm, ban nhạc cúng lễ.

Chũm choẹ còn gọi là não bạt, là nhạc khí tự thân vang của dân tộc Việt. Chũm chọe làm bằng hợp kim đồng thiếc, gồm hai chiếc giống nhau, hình tròn như chiếc đĩa, có núm để cầm. Khi đánh chũm chọe, hai tay cầm hai núm, dập hai mặt vào nhau, có lúc dập chéo xuống, chéo lên. Người sử dụng chũm chọe vừa đánh, vừa múa. Âm thanh chũm chọe to, vang, hơi chói tai. Chũm chọe được sử dụng trong dàn nhạc của cung đình, trong sân khấu tuồng, cải lương, trong đám rước sư tử và tham gia trong dàn nhạc dân tộc tổng hợp hoà tấu. Hai thức nhạc khí ấy được đặt tên theo âm thanh mà nó tạo ra. Ở đây, việc sử dụng tiu cảnh, chũm chọe vừa với tư cách là danh từ, vừa với tư cách là từ tượng thanh, kết hợp với biện pháp tách từ, đặt trong điệp ngữ “khi…khi…khi…” và nhịp 2/2/3 gấp gáp, ồn ã đã góp phần dựng nên một khung cảnh cảnh hỗn loạn đầy những tạp âm. Câu thơ sau đối rất chỉnh với câu thơ trước, cũng điệp ngữ “giọng… giọng… giọng…” nhịp 2/2/3 và những từ mô phỏng âm thanh của con người “hì, hỉ, hi ha” đã góp phần làm tăng sự hỗn loạn của bức tranh lên đỉnh điểm. Tiếng người, tiếng vật, hỗn loạn, tạp nham… có còn đâu là chốn tu thành hành thanh tịnh, còn đâu chốn cửa Phật thiêng liêng? 

Với bọn sư không lo tu hành, ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương có những sự khắc họa hiểm hóc, tài tình:

“Chẳng phải Ngô chẳng phải ta
Đầu thì trọc lóc áo không tà.”

Bút pháp giễu nhại, biếm họa đã dựng nên bức chân dung các vị sư hổ mang một cách trớ trêu: Chẳng phải giặc, cũng không phải quân mình. Một cách oái oăm, bà đặt sư vào một mối quan hệ đối lập sống còn xưa nay, Ngô – ta (quần thù – đất nước), và cười khẩy khi khám phá ra những nét cá biệt, chẳng hiểu là Ngô hay ta của sư: đầu trọc – thì chẳng phải Ngô rồi, mà áo truyền thống của ta là áo có tà, áo sư có tà đâu? Việc đẩy đối tượng châm biếm vào một vị thế lai căng, chông chênh ở giữa giống như một cái cười tinh quái. Ví với giặc, dù không phải là giặc, thì vẫn là một sự sỉ nhục. Mà bảo sư không phải dân mình, cũng lại là một sự sỉ nhục khác.

Thậm chí, cái căm ghét của nữ sĩ họ Hồ có khi bật lên thành tiếng văng tục:

“Đầu sư há phải gì… bà cốt
Bá ngọ con ong bé cái nhầm”.

Ở đây, cũng phải thấy rõ rằng, Hồ Xuân Hương không hề đả kích Phật giáo, không hề đặt mình ở phía đối lập với tôn giáo. Nhưng Phật giáo thời kì này, cùng với sự biến động, nhiễu loạn của xã hội, cũng đã xuất hiện những phần tử xấu, bôi nhọ hình ảnh thanh tịnh của chốn cửa thiền. Ngòi bút của nữ sĩ hướng tới châm chích, đả kích các đối tượng ấy, cũng là một cách đòi lại sự trong sạch cho chốn chân tu. Lí do cao hơn cả, như đã nói ở trên, đó là bởi cái tôi khao khát sống của Hồ Xuân Hương không cho phép bà khoanh tay làm ngơ trước những kẻ rời bỏ cuộc sống, trốn tránh cuộc sống, mượn danh thanh bạch của chốn chân tu để làm trò đồi bại, bỉ ổi, nên đã khiến hồn thơ sắc bén, cá tính của bà nảy sinh những vần thơ châm biếm rấu sâu cay như thế.

Ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương luôn thể hiện một cái tôi mạnh mẽ, bản lĩnh. Sự khẳng định ấy thể hiện trong việc nhận thức giá trị bản thân, khẳng định giá trị bản thân, thể hiện trong cách nhìn của bà về các thói hư tật xấu trong đời sống, và còn thể hiện ở lòng tự tôn dân tộc. Trong bài Đề đền Sầm Nghi Đống, thông qua việc châm biếm, đả kích một tên tướng giặc bại trận, cái tôi Hồ Xuân Hương đã được bộc lộ rất mạnh mẽ:

“Ghé mắt trông lên thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”

Đền Thái thú ở đây chỉ đền Thái thú Sầm Nghi Đống. Họ Sầm là tướng của Tôn Sĩ Nghị cầm đầu một đạo quân nhà Thanh sang xâm lược ta năm Kỉ Dậu (1789). Khi bị vua Quang Trung tấn công, quân Thanh thua chạy, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử. Sau này Hoa Kiều lập đền thờ Sầm Nghi Đống trên gò Đống Đa – Hà Nội. Dù ở bất cứ ngôi đền nào, thì thái độ của người ghé thăm thường là sự tôn kính. Thế nhưng ở đây, thái độ Hồ Xuân Hương thì hoàn toàn khác hắn. Đầu tiền là cái “ghé mắt”, ghét mắt – một cái nhìn nửa vời, không chủ ý, một cái nhìn vô tình thấy, đồng thời trong đó còn hàm chứa sự tự cao, và cả sự khinh khi với kẻ đối diện. Ở nơi thờ tự tôn nghiêm, ấy vậy mà thơ nữ sĩ họ Hồ lại có chỉ từ “kìa”, đứng tách biệt ra khỏi với câu thơ bằng nhịp 1/3/3 – đó là cái chỉ trỏ, có hàm ý coi thường. Như vậy, tư thế của Hồ Xuân Hương ở đây là một tư thế hiên ngang, ngạo nghễ, có phần ngang tàng. Mà quả thật như vậy, nàng đã không ngại ngùng khẳng định cái tôi của mình:

“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”

Nàng đã không ngại ngần khẳng định khí phách của mình, nếu làm nam nhi, nàng còn có thể làm nhiều hơn thế. Cách sử dụng cụm “sự anh hùng” cũng đầy tính châm biếm, mỉa mai. Người anh hùng chân chính làm nên “sự nghiệp anh hùng”, nó to lớn, đồ sộ, khác hẳn với “sự anh hùng”, nghe nhẹ hều, mà có bề gì đấy như giả dối, như một dạng anh hùng rơm. Đã “sự anh hùng”, lại còn “há bấy nhiêu”, câu hỏi tu từ kết bài đầy tính thách thức, đầy chất mỉa mai. Ở đây ta còn thấy xuất hiện vẻ đẹp của lòng tự tôn dân tộc, qua việc sỉ nhục, khinh bỉ một tên giặc ngoại xâm bại trận.

Tiếng nói của Hồ Xuân Hương là tiếng nói của cái tôi khao khát cuộc sống, của cái tôi cá nhân ngang tàng, ngạo nghễ, sẵn sàng khẳng định bản thân. Đúng, nhưng tiếng nói ấy còn có lục vượt ra khỏi khuôn khổ của cái tôi để trở thành tiếng nói của cái ta – tiếng nói chung cho thân phận người phụ nữ của thời đại. Bên cạnh những tiếng kêu than đau đớn cho số phận con người, thì Hồ Xuân Hương còn góp tiếng nói mạnh mẽ để đấu tranh, đòi quyền sống cho người phụ nữ bằng ngòi bút trào phúng của mình. Nàng đã lên tiếng bênh vực cho một cô gái trót lâm vào cảnh “Không chồng mà chửa”:

Cả nể cho nên hóa dở dang,
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng
Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.
Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.

Quản bao miệng thế lời chênh lệch,
Không có, nhưng mà có, mới ngoan!”

(Không chồng mà chửa)

Bài thơ giống như một lời tuyên ngôn bảo vệ hạnh phúc của người phụ nữ, đồng thời còn là một tiếng lòng đồng điệu, bày tỏ hết tâm tình của người con gái yêu bằng cả trái tim, dâng hiến tất cả, để rồi bị phụ tình. Hồ Xuân Hương đã rất mạnh mẽ bảo vệ người phụ nữ ấy: “Quản bao miệng thế lời chênh lệch/Không có, nhưng mà có, mới ngoan”. Ấy là cái ý tứ mượn từ ca dao: “Không chồng mà chửa mới ngoan/Có chồng mà chửa thế gian chuyện thường”. Tuy vậy, thấp thoáng đâu đó trong bài thơ còn có cái cười nhẹ, một cái cười chê trách. Không phải là ngẫu nhiên mà bài thơ xuất hiện những câu hỏi “chàng có biết chăng chàng”, “chàng nhớ chửa” . Đó là những lời dò hỏi tâm tình, đó là lời nhắc nhớ, mà đó cũng là lời oán trách. Một cái cười nhẹ mỉa mai oán trách của nữ sĩ họ Hồ. Chàng quân tử kia ơi, chàng nam nhi kia ơi, sao chàng có gan làm, mà không có gan chịu, sao chàng dám yêu, mà không dám nhận trách nhiệm, sao chàng nỡ bỏ người con gái dành tất cả cuộc đời cho chàng? Thế thì chàng còn đáng mặt nam nhi không, thế thì chàng còn mặt mũi nào mà sống trong trời đất này nữa? Cái cười mỉm ấy của Hồ Xuân Hương, hiền, nhưng chua xót, nhẹ nhàng mà thấm thía.

Các lễ giáo phong kiến cùng với tư tưởng trọng nam khinh nữ và chế độ đa thê đã mang lại cho người phụ nữ biết bao cay đắng, tủi nhục. Sinh thời, Hồ Xuân Hương cũng là nạn nhân của việc làm lẽ, cũng chịu bao cay đắng, tủi hờn, đến nỗi phải thốt lên: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Bên cạnh tiếng chửi, cũng có cả những tiếng cười cợt, như bài “Khóc tổng cóc”:

“Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi.
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi”

Tiếng cười nảy sinh từ phép chơi chữ tài tình của nữ sĩ họ Hồ, lợi dụng hiện tượng đồng âm của từ, sử dụng sự tương đồng trong các phép ẩn dụ để mang cả họ nhà cóc vào bài thơ: chàng, cóc, bén, nòng nọc, chuộc.  Bài thơ khóc chồng, sao lại vui vẻ thế, sao lại mang cả “họ nhà chồng” vào chế giễu như thế, có phải nữ sĩ quá tàn nhẫn không? Có thuyết cho rằng Hồ Xuân Hương làm bài “Khóc tổng Cóc” không phải do tổng Cóc chết mà là sau khi bị người vợ cả ngăn cản, chia rẽ. Vì thế Hồ Xuân Hương mới đưa tên cả họ hàng nhà Cóc vào bài thơ chế giễu. Như vậy đấy, ngay trong tình cảnh đáng thương, hẩm hiu của mình nữ sĩ họ Hồ vẫn có những dòng thơ cười cợt, châm biếm sâu cay. Chẳng hiểu tổng Cóc đọc những vẫn thơ này sẽ cảm thấy thế nào, nhưng người đọc thì thấy khâm phục một tài năng Hồ Xuân Hương, một tấm lòng ham sống của Hồ Xuân Hương. Vợ cả ngăn cản, chia rẽ, không làm gì được, nàng xem như chồng đã chết, lại còn làm cả một bài thơ khóc chồng, nhưng khóc đâu chẳng thấy, chỉ thấy cười cợt, giễu mỉa. Trong hoàn cảnh đáng thương của chính mình mà vẫn có thể cười cợt, bông lơn, đó cũng chính là khí phách “nín đi kẻo thẹn với non sông” của Hồ Xuân Hương vậy.
Trong các loại trào phúng, thì yếu tố cái hài là yếu tố nhẹ nhàng nhất, nó chỉ là một cái cười nhẹ nhàng, cho vui, cho khuây khỏa, nó là cái cười không làm người ta mích lòng, cũng không phải để đả kích, chiến đấu, hay hạ bệ ai cả.  Với những đề tài về người phụ nữ, ngòi bút trào phúng Hồ Xuân Hương cũng chọn cái hài hước nhẹ nhàng ấy làm công cụ bày tỏ, tiêu biểu là qua nhóm bài thơ bỡn người phụ nữ khóc chồng:

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên nỗi khóc tì ti
Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo
Cay đắng chàng ơi vị quế chi
Thạch nhũ, trần bì sao để lại
Quy thân, liên nhục tẩm mang đi
Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ
Sinh ký chàng ơi, tử đắc quy.

(Bỡn bà lang khóc chồng)

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi kẻo thẹn với non sông.
Ai về nhắn nhủ đàn em bé,
Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung.

(Dỗ người đàn bà khóc chồng)

Cả hai bài thơ đều mở đầu bằng cụm “văng vẳng tai nghe tiếng khóc”. Rõ ràng, trước nỗi bất hạnh của người phụ nữ, trước nỗi đau của người góa phụ, Hồ Xuân Hương có sự đồng cảm sâu sắc. Nhưng tại sao ở đây lại có sự bỡn cợt? Trước hết, cần điểm lại bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Xã hội phong kiến là xã hội mang nặng tư tưởng Nho giáo, mà người phụ nữ bị kìm cặp trong tam tòng, tứ đức: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Người phụ nữ, nếu chồng chết, phải thủ tiết thờ chồng. Và cái bi kịch của con người nảy sinh ở chỗ ấy: Nếu người góa phụ hẵng còn trẻ, tuổi xanh hẵng còn, chẳng lẽ phải hoài phí tuổi xanh để thờ một người đã chết? Việc tự nguyện, hay không tự nguyện, là lựa chọn của mỗi người, nhưng ta thấy rằng, quan niệm này đã gây ra bi kịch cho không ít phụ nữ. Tiếng khóc ở đây, có lẽ khóc vì thương xót chồng cũng một phần, nhưng phần nhiều là khóc cho thân phận của mình, cho số phận của chính mình. Đau đớn, tủi thân, thì phải khóc. Nhưng có lẽ, khóc, là cam chịu, là đớn hèn, là chịu khuất phục số phận. Phải chăng đó là lí do Hồ Xuân Hương, một cái tôi ngang tàn, không chịu khuất phục cất lên tiếng nói cười cợt? Hẳn là vậy, hơn nữa, Hồ Xuân Hương còn khuyên nhủ họ: “Nín đi kẻo thẹn với non sông”. Cái khí thế mới ngang tàn, ngạo nghễ làm sao? Đương thời cũng có Nguyễn Công Trứ: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. So với cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ, cái khí phách nữ nhi của Hồ Xuân Hương cũng không thua kém gì, thậm chí có phần đặc biệt hơn, đặt trong bối cảnh xã hội trọng nam khinh nữ.

Cái tài tình của Hồ Xuân Hương còn thể hiện ở chỗ, bút pháp trào phúng của bà không chỉ hướng đến con người và các hiện tượng cụ thể trong đời sống, mà ngay cả những hiện tượng siêu nhiên siêu hình, cũng trở thành đối tượng để bà cười cợt, trêu đùa:

“Khen thay con tạo khéo khôn phàm”

(Hang Thánh Hóa)

“Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc”
(Hang Cắc Cớ)
“Rõ khéo trời già đến dở dom.”
(Động Hương Tích)

Thiên nhiên tạo hóa trong mắt bà cũng là một con người bình thường để bỡn cợt, cũng khôn phàm, thậm chí ngang hàng để bà cười cợt “khen thay”, có khi thì như một người bạn để bà mắng yêu, cười mát mẻ, gọi là “trời già”, gọi là “dở dom”. Cái chơi chữ “tài xuyên tạc” trong bài “Hang Cắc Cớ” bà sử dụng cũng rất tài tình. Xuyên, tạc, đó là những hành động của người thợ chãm khắc, rất hợp với ngữ cảnh “khen ai đẽo đá”. Thế mà, “xuyên tạc”, lại là hành động bóp méo lời nói của người khác, là một hành động không hay. Cái trêu ngươi của Hồ Xuân Hương là ở chỗ đấy. Cười cợt cả tạo hóa, tự nâng mình lên ngang tầm vũ trụ, đó là biểu hiện đầy ấn tượng của cái tôi cá nhân Hồ Xuân Hương. Đồng thời, nó cũng là một biểu hiện cho một tính cách phóng khoáng, hào sảng, khát khao một cuộc sống tự do, tự tại.

Tóm lại, ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương hướng đến đủ mọi đối tượng, đủ thói hư tật xấu trong xã hội, đồng thời cũng rất đa dạng, đa giọng điệu, đa bút pháp. Nghệ thuật trào phúng chính là vũ khí đắc lực nhất của văn học, biến văn học trở thành công cụ cải tạo xã hội, đấu tranh với những điều xấu xa, đồi bại trong xã hội để bảo vệ lẽ phải, công lý, đòi quyền sống cho con người. Tiếng cười trào phúng của Hồ Xuân Hương, thông qua yếu tố cái tục, là thứ “khí giới vừa thanh cao vừa đắc lực mà chúng ta có, để tố cáo vạch trần một xã hội xấu xa, giả dối, làm người đọc phong phú hơn, trong sạch hơn” (Thạch Lam).

Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: tiếng cười trào phúng - mẫu 2

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, có rất nhiều gương mặt tác giả tiêu biểu cùng với những tác phẩm độc đáo cho lớp lớp thế hệ sau và trong số đó, Vũ Trọng Phụng được biết đến với danh hiệu "ông vua phóng sự đất Bắc". Những sáng tác ông đã lột tả một cách chân thực và sâu sắc bức tranh hiện thực đương thời và "Số đỏ" là một trong số những tiểu thuyết thành công nhất của ông. Đọc tiểu thuyết Số đỏ nói chung, đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia nói riêng, người đọc không chỉ thấy được bộ mặt giả dối, bịp bợm của xã hội thượng lưu bấy giờ mà hơn hết còn cảm nhận được sâu sắc và rõ nét tiếng cười trào phúng sâu sắc của ông.

Trước hết, tiếng cười trào phúng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia được thể hiện chân thực và rõ nét ngay từ nhan đề của đoạn trích. Ngay từ nhan đề tác phẩm, tác giả đã sử dụng hai từ ngữ đối lập nhau "hạnh phúc" - "tang gia" tạo ra tính mâu thuẫn, phi lí, mang đến sự tò mò, chú ý và nghi ngờ của người đọc. Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, đám tang - sự ra đi của một người nào đó luôn để lại nỗi buồn, niềm tiếc thương vô hạn trong lòng những người ở lại đặc biệt là những người thân trong gia đình. Ấy vậy mà ở đây, nhan đề đoạn trích lại là "hạnh phúc của một tang gia". Chính điều ấy đã mở ra trước mắt người đọc về một câu chuyện - một màn bi hài kịch với nhiều cảnh đời nghịch lí, oái oăm và phát lên tiếng cười sâu sắc, chua xót. Và để rồi, khi đi sâu đọc tác phẩm, người đọc sẽ nhận ra quả đúng như nhan đề mà tác giả đã đặt cho đoạn trích, xuyên suốt toàn bộ tác phẩm chính là một màn hài kịch mà ở đó các nhân vật thỏa sức diễn. Trước cái chết của cụ cố Tổ, niềm vui, niềm hạnh phúc đã đến với tất cả mọi người trong và ngoài gia đình dẫu bên ngoài họ đang cố khóc, cố tỏ vẻ tiếc nuối thì trong sâu thẳm con người họ vẫn có niềm vui, niềm hạnh phúc đang len lỏi và lớn dần lên.

Thêm vào đó, tiếng cười trào phúng còn được thể hiện một cách rõ nét trong cách nhà văn xây dựng chân dung các nhân vật trong tác phẩm. Chắc hẳn khi nhắc đến đây người đọc sẽ không thể nào quên được cụ cố Hồng - con trai cả của cụ cố Tổ với câu nói cửa miệng quen thuộc "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi." với cái bộ dạng lúc cha mình vừa chết thật đáng buồn cười và chê trách biết bao "Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến lúc cụ mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, cho thiên hạ phải chỉ trỏ: "Úi kìa, con giai lớn đã già thế kia." Dường như, với cụ cố Hồng, cái chết của cha mình chẳng có gì đáng để đau xót, tiếc thương mà đó chính là cái dịp để ông khoe danh, khoe giàu sang. Không chỉ cụ cố Hồng, Phán mọc sừng cũng như vậy. Ông Phán mọc sừng tỏ rõ bản chất của mình là một kẻ tính toán, hám danh, hám lợi chỉ nghĩ làm sao để mình có thể thu được nhiều lợi nhất. Người đọc có thể nhận rõ được điều ấy bởi lẽ dẫu bị vợ cắm sừng, ông không những không thể làm gì mà còn cảm thấy sung sướng, tự hào bởi lẽ chính cặp sừng ấy có một giá trị to lớn - "ông Phán mọc sừng đã được cụ cố Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và con rể thêm số tiền là vài nghìn đồng". Thêm vào đó, ông Văn Minh - cháu nội của cụ cố Tổ cũng là một nhân vật trào phúng sắc sảo.

Ông nội mất, ông Văn Minh với cái dáng vẻ "phân vân", "đăm đăm chiêu chiêu", "vò đầu bứt tóc" nhưng không phải vì cái chết của cụ cố Tổ mà bởi trong ông đang có hai điều phân vân, khiến ông phải suy nghĩ đó chính là ông phải làm như thế nào khi cái chúc thư kia đi vào thời kì thực hành chứ không còn dừng lại ở việc lí thuyết nữa và nên xử lí như thế nào với Xuân Tóc Đỏ khi hắn có "hai cái tội nhỏ, một cái ơn to". Những hành động ấy của ông Văn Minh đã chứng tỏ ông là người háo danh, giả dối và đầy bất nhân. Đồng thời, đám tang ấy chính là dịp để bà Văn Minh, cô Tuyết khoe những trang phục tối tân, hợp thời, là dịp để cô Tuyết chứng tỏ mình còn trinh, là dịp để những người bạn của cụ cố Hồng khoe huy hiệu, huân chương, để cậu Tú Tân trổ tài chụp ảnh. Và như vậy, đám tang của cụ cố Hồng mà chẳng có lấy một ai tiếc thương, xót xa mà ngược lại, mọi người dù trong hay ngoài gia đình đều sung sướng, hả hê. Thái độ ấy của các nhân vật cho thấy sự thiếu đạo đức, vô liêm sỉ của họ. Tất cả những con người ấy đã tạo nên một gia đình, một xã hội bất nhân, bất nghĩa, bất hiếu, đúng như nhà văn Vũ Trọng Phụng đã gọi đó là xã hội "lai căng, chó đểu".

Và cuối cùng, tiếng cười trào phúng của đoạn trích còn thể hiện rõ nét ở những cảnh tượng, chi tiết trào phúng đặc sắc. Trước hết, cảnh đưa tang là một trong số những cảnh trào phúng đặc sắc đặc sắc. Có thể nói, đám ma của cụ cố Tổ "to nhất cái Hà thành", một cái đám ma có đầy đủ "theo cả lối Ta, Tàu, Tây, có cả kiệu bát cống, lợn quay đi lọng" và cả những "lốc bốc xoảng, bú-dích và vòng hoa, có cả vài ba trăm người đi đưa,...". Để rồi, trước cái cảnh tượng đám đưa tang ấy, tác giả phải cất lên lời nhận xét rằng đấy là một cái đám tang mà có thể khiến cho "người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười." Một lời nhận xét, một lời mỉa mai thật sâu sắc và ý vị.

Không dừng lại ở đó, cái lỗ bịch, hài hước, đáng mỉa mai của đám tang này còn ở chỗ nó là cái đám ma mà mọi người tham dự cái đám ma ấy đều lố bịch, họ chẳng có lấy chút gì buồn thương mà mỗi người đều có những niềm vui, những lí do của riêng mình. Đó là Tuyết với bộ trang phục Ngây thơ để chứng minh với mọi người về sự trong trắng của mình. Đó là những người bạn của cụ cố Hồng với "ngực đầy những huy chương như Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tường bội tinh,...trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn,...". Những con người ấy đã biến đám tang ấy trở thành nơi để khoe huy hiệu, thi râu. Đó còn là những người bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh biến đám tang thành nơi "chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa đám". Nhưng có lẽ cái cảnh tượng trào phúng độc đáo bậc nhất, làm cho tiếng cười trào phúng bật lên sâu sắc nhất đó chính là cảnh hạ huyệt. Đó là cậu Tú Tân như một người đạo diễn đang cố sắp xếp, dàn dựng để tất cả mọi người diễn xuất thể hiện xuất sắc vai diễn của mình "bắt bẻ từng người một, hoặc chống gây, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này thế nọ,... để cậu chụp ảnh lúc kỉ niệm." Đó còn là ông Phán mọc sừng với tiếng khóc "hứt...hứt...hứt..." tưởng chừng như xé lòng nhưng ẩn đằng sau đó là một vụ trao đổi, mua bán với Xuân Tóc đỏ. Dường như, cái đám tang của cụ cố Tổ đang trở thành một màn hài kịch mà ở đó, mỗi người trong và ngoài gia đình là một người diễn viên xuất sắc.

Tóm lại, đoạn trích "Hạnh phúc của một tang gia" đã thể hiện một cách sâu sắc hiện thực xã hội thượng lưu thời bấy giờ và để rồi từ đó bật lên tiếng cười trào phúng sâu sắc và đầy ý nghĩa. Đồng thời, qua đó cho thấy tài năng của Vũ Trọng Phụng trong việc xây dựng, lựa chọn mâu thuẫn, nhân vật và cảnh tượng trào phúng.

Trình bày ý kiến về một vấn đề xã hội: tiếng cười trào phúng - mẫu 3

Trần Tế Xương cay nhất là chuyện thi cử. Tài giỏi như ông mà phải đến lần thi thứ tám mới đậu vét được cái tú tài. Mà Tú tài thời đó thì được tiếng là “ông Tú” nhưng chỉ được “làm quan tại gia”, “ăn lương vợ”. Nhưng không được thênh thênh trên đường hoạn lộ chưa hẳn đã là rủi, thì ông Tú Xương làm thơ, làm thi sĩ, thành thi hào! Bài thơ “Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” là một đòn trời giáng của Tú Xương vào chế độ thi cử mạt vận, hổ lốn, ô nhục của thời thực dân mới đặt chân cai trị đất nước ta.

Là sĩ tử, cũng là nạn nhân trong kì thi Hương năm Đinh Dậu (1897), tại Nam Định, Trần Tế Xương tận mắt chứng kiến sự suy đồi của Nho học, đau lòng trước nỗi ô nhục của tài tử văn nhân đất Bắc. Cho nên mở đầu bài thơ, tác giả đã phê phán sâu sắc nhà nước thực dân phong kiến thời bấy giờ:

“Nhà nước ba năm mở một khoa

Trường Nam thi lẫn với trường Hà”

Tác giả nói “nhà nước” một cách trang trọng như vậy nếu những việc làm của “nhà nước” mà tô't đẹp thì là ngợi ca, còn nếu nói đến những việc làm của “nhà nước” không ra gì thì là “hạ bệ”. Rõ ràng là Tú Xương đã “hạ bệ” cái “nhà nước” thực dân phong kiến đó bằng sự kiện “ba năm mở một khoa”. Dưới sự cai trị của “nhà nước” thực dân, đạo học (chữ Nho) đã mạt vận. “nhà nước” chỉ mở kì thi cầm chừng, hổ lốn, mất hết vẻ trang nghiêm của kỳ thi quốc gia: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Sợ mất an ninh ở Hà Nội, “nhà nước” thực dân đã lừa sĩ tử Hà Nội xuống Nam Định “thi lẫn” với sĩ tử trường Nam. Chỉ một từ “lẫn”, Tú Xương phơi bày cả sự đổ nát của kỳ thi quốc gia và phê phán “nhà nước” vô trách nhiệm.

Sang hai câu thực, sĩ tử và quan trường được nhà thơ Tú Xương biếm họa rất tài tình:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ

Ậm ọe quan trường miệng thét loa”

Tú Xương có biệt tài mà Nguyễn Công Hoan tôn như “thần thơ thánh chữ” là chỉ trong một chữ đã lột tả được thần thái của sự vật. Chỉ một từ “lôi thôi” được đảo ra phía trước, nhấn mạnh là hình ảnh của sĩ tử bị chìm trong sự nhếch nhác. Sĩ tử mà bút mực đâu không thấy, chỉ nổi bật lủng lẳng một cái lọ (vì đường xa, phải đeo theo lọ nước uống). Hàng ngàn “sĩ tử vai đeo lọ” thì lôi thôi thật, là bức tranh biếm họa để đời về anh học trò đi thi trong thời buổi thực dân nhố nhăng. Còn quan trường thì “ậm ọe” giọng như mửa. Sĩ tử thì đông vì dồn cả hai trường thi lại nên quan trường phải “thét loa” lại còn lên giọng đe nẹt sĩ tử nên thành ra “ậm ọe” tởm lợm thật đáng ghét. Thái độ trào lộng của nhà thơ thật rõ ràng. Đối với “sĩ tử”, Tú Xương thấy nhếch nhác đáng thương; đối với “quan trường”, Tú Xương khinh ghét ra mặt. Quan trường của một kì thi quốc gia bát nháo mà còn “ậm ọe” không biết nhục.

Tú Xương còn ghi lại một hiện tượng chưa từng thấy trong lịch sử thi cử của nước nhà là “khoa thi Đinh Dậu”, có cả Tây đầm nhốn nháo ở trường thi:

“Cờ cắm rợp trời quan sứ đến

Váy lê phết đất mụ đầm ra”

“Cờ cắm” hay “Lọng cắm”? Sách giáo khoa hiện hành chép là “Cờ cắm”, có chú thích là: có bản chép: “Lọng cắm”. Thơ Tú Xương gần với thơ ca dân gian, nhà thơ sáng tác không in ấn, không xuất bản, người đời nghe rồi ghi lại nên dễ “tam sao thất bản”. Trong những trường hợp có dị bản như thế này thì buộc người đọc, người nghiên cứu phải lựa chọn. Người soạn sách giáo khoa chọn “cờ cắm” để đối với “váy lê” ở câu dưới cho thật độc. “Cờ” mà đối với “váy” độc quá! Theo tôi, “lọng cắm” hay hơn:

“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến”

Quan sứ (công sứ Nam Định Lơ Nooc Măng, đèn dự lễ xướng danh khoa thi Hương hẳn là phải có “lọng cắm rợp trời” mà “lọng cắm” thì mới “rợp trời”. Còn vế đối “Lọng cắm rợp trời” với “váy lê phết đất” cũng chỉnh quá, mà độc địa không kém. Lọng là cái che trên đầu “quan sứ” mà lại đôi với “váy” là cái che dưới mông “mụ đầm”! “Quan sứ” đến”, “mụ đầm ra”, chúng nó “đến”, nó “ra” như thế thì nhục quá, không chịu được, Tú Xương đã chơi một đòn trí mạng vào bọn Tây đầm thực dân nhốn nháo vào cái thời buổi nhố nhăng! Tú Xương ác khẩu trong cách đối chữ đôi câu, cái tôn nghiêm đem đọ với những cái không tiện hô đúng tên thật, ông lợm sự sông, ông cho lộn tùng phèo cả đi. Nghĩ về người quan văn người quan võ thời nhí nhố ấy, ông đem cái võng (võng điểu võng thắm) ra mà đối với cái khố dây (khố đỏ khố xanh). Tường thuật việc trường thi chữ nho có Tây đến ra bài, ông đem cái lọng quan sứ mà đối với cái váy mụ đầm, đem cái đít vịt bà đầm ra đối với cái đầu rồng một ông cử dốt đang lạy tạ mũ áo vua ban... (Nguyễn Tuân).

Kết thúc bài thơ, tác giả chuyển từ giọng điệu trào lộng sang giọng điệu trữ tình thâm trầm. Tú Xương đau lòng nhắn nhủ với “nhân tài đất Bắc”:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó

Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”

Giọng trữ tình thấm thìa ấy như có sự cộng hưởng của giọng điệu trữ tình đầy nhiệt huyết của các nhà ái quốc đầu thế kỷ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... Tất nhiên trong giọng điệu chung của những tấm lòng ái quốc ấy, ta vẫn nhận ra sắc thái riêng của Tú Xương. Khi thì xót xa thổn thức “Nhân tài đất Bắc nào ai đó”, khi thì kiêu bạc trịch thượng “Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”. Không dễ gì mà hạ một chữ “ngoảnh cổ” như vậy đối với giới trí thức Bắc Hà. Phải có chân tài và quan trọng hơn nữa là phải có tấm lòng đối với đất nước, với dân tộc thì nhân tài đất Bắc mới tâm phục. Đúng là tâm sự yêu nước thổn thức của Tú Xương là vật bảo chứng cho những gì là lộng ngôn của nhà thơ:

“Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn

Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn”

(Đêm hè)

Dưới mắt Tú Xương, sự suy đồi của đạo học (chữ nho) là một hiện tượng của sự mất nước, của sự nô lệ. Với Tú Xương, nỗi nhục trong “Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” là nỗi nhục mất nước! “Theo tôi nghĩ, thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ cái đông tài liệu thực tế, nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở được ra một cái diện không gian, thời gian trong đó nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” (Nguyễn Tuân).

“Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” của Trần Tế Xương là “sử thi” về đời sống nhà nho lúc Tây sang. Đạo học suy đồi, thi cử bát nháo hố’ lốn, sĩ tử mất hết nhuệ khí, quan trường mất hết nhân cách. Bọn thực dân nghênh ngang đến trường thi là một nỗi ô nhục của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau của nhà thơ đã làm thức tỉnh tầng lớp trí thức đương thời.

Nghệ thuật trào lộng và trữ tình của Tú Xương đều sâu sắc, thấm thía. Đối với sĩ tử, nhà thơ thương mà cười, đối với quan trường, nhà thơ căm ghét mà châm biếm, đối với bọn thực dân, nhà thơ căm thù mà đả kích, hạ nhục. Từ ngữ, hình ảnh, âm điệu, bút pháp của bài thơ bộc lộ tài hoa của một hồn thơ lỗi lạc. Đúng như lời ngợi ca của Yên Đổ:

“Kia ai chín suối xương không nát

Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn”

Xem thêm các bài văn mẫu 8 Kết nối tri thức hay khác: