Top 10 Viết bài văn phân tích bài thơ Thu ẩm của Nguyễn Khuyến
Haylamdo biên soạn và sưu tầm tổng hợp trên 10 bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Dàn ý phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến
- Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến (mẫu 1)
- Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến (mẫu 2)
- Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến (mẫu 3)
- Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến (mẫu 4)
- Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến (mẫu 5)
- Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến (mẫu 6)
- Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến (mẫu 7)
Top 10 Viết bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến
Dàn ý Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến
a. Mở bài:
_Nguyễn Khuyến là tác giả xuất sắc của nền văn học trung đại Việt Nam.
- Thu ẩm nằm trong chùm thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến và là một trong số những bài thơ thu nổi tiếng nhất của Nguyễn Khuyến
- Bài thơ là dòng cảm xúc của con người yêu đời, yêu quê hương, đất nước. Trong hình ảnh thu đó là hình ảnh đồng quê Bắc Bộ với dáng thu, hồn thu lung linh.
b. Thân bài:
- Hai câu đề:
Ba gian nhà có thấp le te,Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Không giống như những tác giả khác chọn không gian sáng làm tôn lên bức tranh thu. Nguyễn Khuyến chọn mùa thu trong không gian đặc biệt là buổi đêm "ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe". Cảnh thu thì không phải là những gì tươi đẹp, sang trọng, rực rỡ. Đó là cảnh nghèo khó "ba gian nhỏ cỏ". Gian nhà cỏ là biểu trưng của cái nghèo, cái cực. Nhưng vào thơ Nguyễn Khuyến, cái nghèo dường như bị xóa nhòa. Từ láy "le te" gợi hình dung về mức độ thấp của cảnh vật. Bóng tối dường như bao trùm và khiến cảnh vật bị xóa nhòa.
- Hai câu thực:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,Làn áo lóng lánh bóng trăng loe.Hình ảnh thơ rất độc đáo: sương thu như màu khói phủ quanh bờ rào. Cách chọn hình ảnh rất bình dị, rất mộc mạc. Chi tiết bón trăng xuất hiện đã cho người đọc hình dung về hình ảnh mặt trăng in trên bóng nước tạo ra những gợn sóng lăn tăn khiến người nhìn có hình dung về bóng trăng loe. Âm "l" đứng đầy các từ gần nhau góp phần làm rõ hơn về bức tranh
Các phụ âm đầu 7 đứng gần nhau (Làn, lóng lánh, loe) đặc tả cảnh đó và thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến.
- Hai câu luận:
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,Mắt lão không vậy cũng đỏ hoe.
Trong câu thơ này, tác giả miêu tả hình ảnh bầu trời. Bầu trời có màu xanh và xanh ở mức tuyệt đối "xanh ngắt". Nghệ thuật nhân hóa "da trời" đã làm người đọc liên tưởng về hình ảnh thu tươi đẹp và giống như một người thiếu nữ xinh đẹp.
Đại từ phiếm chỉ "ai" đã làm người đọc hình dung về sự huyền bí, mờ ảo trong tác phẩm.
Đối tượng miêu tả thứ hai của tác giả là miêu tả chính bản thân mình. Đôi mắt đỏ hoe ở đây là đôi mắt chứa đầy những tâm trạng. Bởi lẽ, đôi mắt đỏ hoe chứa nhiều cảm xúc.
- Hai câu kết:
Rượu tiếng rằng hay hay chẳng mấy,Chỉ dăm ba chén đã say nhè.
Cụm từ "tiếng rằng hay hay chẳng thấy" tức là thường xuyên uống rượt hoặc được hiểu là tửu lượng cao. Và dù "chỉ dăm ba chén" nhưng ta thấy được câu chuyện ở đây không phải là uống rượu. Mà đó chỉ là một vài chén. Uống rượu không nhằm say mà uống rượu để quên đi nỗi buồn thời thế.
* Nghệ thuật:
Thể thất ngôn bát cú Đường luật
Sáng tạo trong gieo vần và sử dụng từ ngữ
c. Kết bài:
- Tâm trạng u hoài của Nguyễn Khuyến thấm đượm vào cảnh vật. Nhà thơ đã làm rõ được tình thu và cảnh thu buồn bã.
Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến - mẫu 1
Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu (Âm: uống, uống rượu). Nó có nghĩa là một trong bài thơ Nôm về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá) Thu vịnh (mùa thu làm thơ) và Thu ẩm. Cũng có nhiều bài thơ khác về mùa thu bằng chữ Hán, ba bài này đều in đậm hai nét tiêu biểu cho tâm hồn thơ của tác giả: đó là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc bộ thời xưa và thắm đượm vào cảnh vật là tâm tư của nhà thơ trước cảnh tình đất nước thời gian ông từ quan về sống ở quê nhà. Tất nhiên, ở mỗi bài là dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng.
Dáng thu trong Thu vịnh là cái gì cao thăm thẳm xa vời, quen mà hóa lạ. Trời thu thì xanh ngắt những mấy từng; cây tre thu lại chỉ còn một cần trúc; khói phủ thành từng trên mặt nước; song cửa đê mặc ánh trăng vào; hoa năm nay giấu vào hoa năm ngoái, tiếng ngỗng vang trong mơ hồ… Hồn thu như lắng chìm vào bên trong, ấn chứa ở chiều sâu. Dáng thu, hồn thu trong Thu điếu là cái gì cũng như thu mình cho nhỏ bé, cho lặng im: Chiếc thuyền câu bé tẻo teo, mặt ao chỉ gọn tí, mảnh lá vàng rơi vèo không thành tiếng, cá quẫy chỉ động nhẹ dưới chăn bèo. Tất cả cùng mọi vật khác đều như im lìm trong một không khí lặng yên, tĩnh mịch của một sự đợi, đợi chờ tưởng như ông câu cũng hóa đá trong tư thế tựa gối ôm cần. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong cái lắng chìm vào bên trong, cái đợi chờ mỏi mòn trong yên lặng như thế.
Với lên hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là mượn chút so sánh để nhìn được rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này. Dáng thu, hồn thu, cả tâm tư nhà thơ có khác.
Cảnh vật vẫn là cảnh vật ở hai bài thơ kia: Từ nhà từ vườn nhìn ra đồng, cái ao, rặng tre, hàng dậu, lối xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở hai bài thơ trên kia, Nguyễn Khuyến là nhà thơ, là ông câu cá, còn ở đây ông khề khà ly rượu. Nhưng cũng chính từ cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến dạng, đầy bất ngờ mà thú vị.
Hai câu đề:
Ba gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ một bậc nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le te đã rõ là thấp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo: Ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng lại có ánh lửa đom đóm lập lòe làm cho ngõ tối và đêm sâu lúc tối, lúc sáng thành ra cũng biến dạng.
Hai câu thực cũng vậy:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làm áo lóng lánh bónq trăng loe.
Sương thu lớt phớt như khói mỏng phủ bờ giậu khiến cho cây xanh cũng chẳng còn màu đêm. Câu thơ đặc biệt miêu tả tài tình: Mặt ao cũng không còn phẳng lặng mà lăn tăn gợn sóng và ánh trăng chiếu vào nên lóng lánh; bóng trăng chiếu xuống nước gợn sóng cũng chẳng còn nguyên hình mà chao lại loe ra, dồn lại, biến dạng liên tiếp.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Cảnh trời và cảnh mình. Trời cũng như mình đều do ai đó làm cho biến đổi: Trời thì ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy mà cũng đỏ hoe? Người nghiên cứu bảo cụ Tam nguyên đau mắt, có lần mắt đỏ như máu, hay là do rượu say? Say rượu cũng thường đỏ mắt. Chữ “ai” lấp lửng một mối hoài nghi, nghe lửng lơ nhưng chắc không phải vô ý. Bỗng dưng lại lấy một thế lực nào đó bên ngoài tác động vào trời, nhuộm cả da trời, rồi bỗng dưng mắt mình “đỏ hoe nước mắt”. Đây cũng là nét tâm tư của nhà thơ? Nó cùng một mạch cảm thương như hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái, và tiếng ngỗng bay qua trời mình mà nghĩ mà ngỡ là ngỗng nước nào. Tâm tư nhà thơ không ngoài nét buồn đau trước cánh nước mất, lũ giặc lũ gian giày xéo mà mình thì bất lực, bứt rứt không nguôi.
Cuối cùng là tửu tượng cũng chẳng còn bình thường: Rượu tiếng rằng hay chả mấy nên chỉ dăm ba chén đã say nhè. Nhìn chung tại sao lại có sự biến hình đổi dạng này? Do rượu chăng? Sao nhìn vật một hóa thành hai, ba, hoặc nhòa nhạt tất cả. Dáng hình biến đổi, màu sắc, đường nét nổi lên nhòe ra chập lại, lảo đảo như say.
Âm thanh cũng theo điệu ấy, có vẻ say. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là ở tất cả các từ: le te, lập lòe, đỏ hoe, say nhè. Cả câu: Làn ao lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm l, càng tăng gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chỉ ở bóng trăng dưới nước mà ở cả mặt ao, làn ao. Từ đó mà cảm giác ngả nghiêng chao đảo ấy lan tỏa ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ “say nhè” ở chót câu cuối nhưng rồi âm thanh và ý nghĩa lại dội ngược lên toàn bài.
Thế là nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu này. Sau dăm ba chén, tâm tư đã nhòa ra, thẩm thấu vào cảnh vật, khiến cho dáng thu, hồn thu đều cùng biến dạng, lảo đảo, say nhè. Cái hay, cái tài của bài thơ Thu Ẩm này là ở đó. Nhà thơ say vì nỗi buồn trước vận nước và bứt rứt khôn nguôi trong lòng. Mượn vài chén rượu cho khuây nhưng uống vào lại thấy nỗi niềm ấy hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo cả cảnh vật đêm thu. Có lúc không rượu mà tâm trạng chừng vui hơn, cụ Tam nguyên đã tự cười mình và cũng thấy người mình như say: Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say kia mà!
Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến - mẫu 2
Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu. Đây là một trong ba bài thơ Nôm nói về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá), Thu vịnh (Mùa thu làm thơ), Thu ẩm (Mùa thu uống rượu). Chùm thơ này là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.
Dáng thu trong Thu vịnh thăm thẳm, xa vời, quen mà lạ. Trời thu thì xanh ngát những mấy từng cao; khóm tre thu nhỏ lại trong hinh ảnh cần trúc, sương như khói phủ thành tầng trên mặt nước, song thưa để mặc bóng tràng vào, hoa năm nay bỗng thành hoa năm ngoái, tiếng ngỗng thảng thốt, mơ hổ… Hồn thu như lắng chìm vào bôn trong, ẩn chứa ở chiều sâu.
Dáng thu, hồn thu ở bài Thu điếu lại chất chứa trong sự thu nhỏ và lặng im của cảnh vật: chiếc thuyền câu bé tẻo teo, nước biếc trên mặt ao chỉ gợn tí, lá vàng khẽ rơi vèo không thành tiếng, tiếng cá đớp động rất nhẹ dưới chân bèo. Tất cả đều im lìm, tĩnh mịch. Tưởng chừng như ông câu cũng hoá đá trong tư thế tựa gối ôm cần. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong sự chờ đợi mỏi mòn giữa không khí yên lặng gần như tuyệt đối.
Trở lại với hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là có ý so sánh đế nhìn được rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này, ở đây, dáng thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ có khác.
Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà chén rượu giải sầu. Nhưng cũng chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị .
Hai câu đề:
Ba gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.
Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ xuống một bậc nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le te thi đã rõ ra là lụp xụp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo, ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm lập loè lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối và đêm sâu cũng biến dạng.
Hai câu thực:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp.
Hai câu luận:
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Nguyễn Khuyến tả cảnh trời và cảnh mình. Dường như bầu trời và con người đều bị một thế lực vô hình nấo đó làm cho biến đổi: Da trời không biết ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy sao cũng đỏ hoe? Hay là do say rượu ? Say rượu cũng thường đỏ mắt. Chữ ai trong câu thơ lấp lửng một mối hoài nghi lấp lửng nhưng không vô ý. Đây cũng là biểu hiện tâm trạng của nhà thơ chăng? Hay là nó cũng cùng một mạch với cảm nhận hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái và nghe tiếng ngỗng văng vẳng trên không mà giật mình tự hỏi là ngỗng nước nào ? Tâm tư nhà thơ trĩu nặng trước cảnh đất nước bị lũ giặc ngoại xâm giày xéo mà mình thì đau đớn, day dứt khồng nguôi.
Cuối cùng là tửu lượng của nhà thơ cũng chẳng còn bình thường: Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy, Chỉ dăm ba chén đã say nhè. Tại sao cảnh vật lại có sự biến hình đổi dạng như thế? Do người nhìn say rượu chăng bởi khi say thì nhìn một hoá thành hai, thành ba hoặc nhạt nhoà tất cả. Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo như say.
Âm thanh bài thơ cũng theo điệu ấy. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là ở các từ: le te, lập loè, loe, đỏ hoe, say nhè. Tất cả các từ quy vào âm chủ đạo là e: từ nhè, say nhè mà ra rồi nhoè ra thành nguyên âm đôi oè (lập /oè), oe (loe, hoe), các vần này cũng lảo đảo say theo, say mạnh hơn. Cảnh vật cũng như say: ánh sáng đom đóm hoá lập loè, bóng trăng chập chờn loe ra theo làn sóng, mắt người tự nhiên cũng đỏ hoe. Trong câu: Làn ao lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm l nối tiếp nhau, càng làm tăng gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chĩ ở bóng trăng mà ở cả mặt ao, làn nước và từ đó lan toả ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ say nhè.
Nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu vắng. Sau dăm ba chén, hơi men đã khơi dậy tâm tư. Nỗi xúc động sâu xa trong tâm hồn nhà thơ thấm vào cảnh vật, đồng điệu với dáng thu, hồn thu. Cái hay, cái tài của bài thơ Thu ẩm là ở đó. Nhà thơ buồn bã, day dứt không nguôi trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây nhưng càng uống lại càng thấy nỗi niềm đó hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo đến cả cảnh vật đêm thu. Đã có lúc không uống rượu và tâm trạng dường như vui hơn, cụ Tam Nguyên tự cười mình và cũng thấy mình chuếnh choáng: Khấp khểnh ba chân dở tĩnh say kia mà.
Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến - mẫu 3
Hình như trong thi ca - nhắc đến mùa thu là nhắc đến nỗi buồn - nỗi buồn trải ra với đầy đủ cung bậc: từ buồn thương, buồn nhở, buồn man mác... Nhưng với mỗi thi nhân, nỗi buồn lại gắn với một tâm sự khác nhau. Đến với Thu ẩm của Nguyễn Khuyến - nhà thơ của làng cảnh Việt Nam - người đọc lại được chiêm ngưỡng một bức tranh thu với với đủ sắc màu và âm thanh dưới cái nhìn, dưới con mắt của một thi nhân, của một con người đang đơn độc nâng chén với cuộc đời. Nhan đề “Thu âm” - mùa thu uống rượu - là nhãn tự, là nơi nói lên nội dung chính của bài thơ.
Có thể nói, trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, chỉ có bài Thu điếu là nhất quán về không gian, về thời gian. Còn ở bài Thu vịnh và Thu ẩm khó có thể xác định một không gian, thời gian cụ thể nào. Có thể nhà thơ Nguyễn Khuyến uống rượu làm thơ trong một đêm thu nào đó nhưng cảnh thu không nhất thiết là cảnh đêm thu. Khi cái say men đã làm thi nhân hơi chếnh choáng thì các hình ảnh lần lượt hiện về trong tâm trí dệt nên bức tranh thu đa dạng.
Vẫn bằng bút pháp hiện thực quen thuộc, bằng lời thơ bình dị, Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng cảnh:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe.
Nơi nhà thơ đang uống rượu làm thơ không phải là thư phòng, thư sảnh của lầu son gác tía nào mà chỉ là ngôi nhà cô đơn sơ bình dị nơi thôn dã, một ngôi nhà lợp bằng rơm rạ “thấp le te”. Từ nơi ấy thi nhân nhìn ra chỉ thấy màn đêm sâu thẳm. Đó là một đêm tối gợi lên chiều sâu không cùng, tối tăm, ánh sáng đom đóm mới lập lòe như thế. Trong đêm thu trời tối, Nguyễn Khuyến trầm ngâm bên chén rượu, những cảnh thu ở nhiều nơi cứ lập lòe ẩn hiện trong tâm trí của thi nhân. Đó là cảnh chiều thu quê hương yên ả, đầm ấm:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt.
Đó là cảnh đêm trăng mùa thu được cảm nhận từ phía ao nhà: “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”. Đó là cảnh mùa thu trong một ngày nắng đẹp: “Da trời ai nhuộm màu xanh ngắt”. Cảnh trong tâm tưởng mà rất thực, rất bình dị. Đó là cảnh quê, hồn quê từ lâu đã thấm sâu, hòa nhập vào tâm hồn Nguyễn Khuyến để khi làm thơ thi hứng lại gọi về. Trăng mùa thu là thi liệu quen thuộc nhưng thi liệu ấy lại trở nên mới mẻ sinh động lạ thường khi được nhìn qua đôi mắt của thi sĩ làng quê Yên Đổ. Nhà thơ Xuân Diệu cho đây “là một câu thơ hiếm có”, một phát hiện của nhà thơ có tài: “... câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng từ mặt nước ao sáng lóe ra, bốn chữ khả năng (làn, lóng, lánh, loe) gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh (lóng, lánh, bóng) gợi ánh bắn đi; từ loe, âm oe gợi cái gì tròn (tròn xoe) như cái ao chẳng hạn”. Xuân Diệu đã phân tích rất tinh tế khả năng gợi tả của ngôn ngữ ở phương diện ngữ âm. Nhưng để có cái hay, cái đẹp, cái độc đáo ấy trước hết là ở cách nhìn, ở hướng tiếp cận. Thi sĩ bao đời nay miêu tả trăng thu. Nhìn trăng qua ao mới có vẻ đẹp lóng lánh như thế, trăng từ trong ao hắt ánh sáng lên mới tạo ra những chùm sáng lòe như thế. Một thi sĩ tài năng thì không có đề tài nào là mòn cũ, không có câu chữ nào là mất đi sức sống.
Thu ẩm là mùa thu uống rượu mà mãi cuối bài thơ mới thấy hình ảnh người uống rượu xuất hiện:
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
Đó là chân dung tự họa của nhà thơ Nguyễn Khuyến trong những năm tháng ẩn dật ở quê nhà. Nỗi niềm gì đang xót lòng xót dạ người nho sĩ ấy đến mức mắt đỏ hoe, rớm máu? Từ đôi mắt, người đọc nhìn thấu nỗi buồn đau của cụ Tam Nguyên. Đã từng đỗ đầu thi hương, thi hội đã từng được vua ban chức này tước nọ mà Nguyễn Khuyến không chút đắc ý về cuộc đời mình. Có lúc ông còn thấy việc học cũ là viển vông vô ích, việc làm quan trong thời buổi ấy là nỗi nhục. Tưởng là trở về vườn xưa chốn cũ để thanh thản nỗi lòng, nào ngờ đâu lòng vẫn nặng buồn đau:
Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn
Tình thương hải tang điền qua mấy lớp.
(Trở về vườn cũ)
Để dịu bớt cơn đau, để khuây khỏa nỗi buồn, Nguyễn Khuyến đã làm bạn với túi thơ, bầu rượu. Ở Trung Quốc có nhà thơ Lí Bạch làm nhiều bài thơ về rượu, ở nước Nam ta không có ai nói về rượu trong thơ nhiều như Nguyễn Khuyến. Nhà thơ hay uống rượu nhưng chả uống được nhiều. Người ta uống rượu để mà quên, để mà say còn Nguyễn Khuyến uống rượu lại càng nhớ, lại càng buồn. Cái tôi trữ tình của nhà thơ trong bài Thu ẩm bề ngoài thì có vẻ say nhè nhưng thực chất là rất tỉnh. Say nhè để quên mọi chuyện nhưng nhà thơ không quên được nỗi đau buồn về non sông đất nước.
Bức tranh thi nhân uống rượu trong đêm thu khép lại với những vần thơ đầy xúc động. Có bài thơ, ngoài nhan đề Thu ẩm - chẳng có thêm một chữ “thu” nào, thế mà hồn thu, hơi thu lan tỏa khắp không gian, thấm vào vạn vật và dư âm thu vẫn lan tỏa mãi trong lòng người đọc. Với Thu ẩm, nhà thơ đã viết nên một áng thơ mang đậm dấu ấn và âm hưởng riêng của một Nguyễn Khuyến tài tình và tinh tế, qua đó bộc lộ tâm sự, nỗi buồn về vận nước. Niềm yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu hiện thâm trầm, kín đáo mà không kém phần sâu sắc.
Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến - mẫu 4
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè.
Rượu, hoa, trăng… là những thú tiêu khiển thanh cao của các tao nhân mác khách xưa nay. Bài thơ “Nâng chén, hỏi trăng” của Lý Bạch rất được nhiều người yêu thích:
“Người nay chẳng thấy trăng thời trước
Người trước, trăng nay soi đã từng
Người trước, người nay như nước chảy
Cùng xem trăng sáng đều thế đấy
Chỉ ước vui ca thưởng chén quỳnh
Be vàng, trăng sáng vào rọi mãi”.
(Tương Như dịch)
Tam Nguyên Yên Đổ cũng có nhiều câu thơ rất đậm đà ý vị nói về rượu:
“Khi vui chén rượu say không biết
Ngửa mặt lờ mờ ngọn núi xa”.
(Cáo quan về ở nhà)
“Em cũng chẳng no mà chẳng đói,
Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu”.
(Lụt, hỏi thăm bạn)
“Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua”…
Và còn có “Thu ẩm” – mùa thu uống rượu. Hình ảnh trung tâm của bài thơ là “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”. Câu thơ đã diễn tả trạng thái ngà ngà say… đến “say nhè”: “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy – Độ năm ba chén đã say nhè”. “Say nhè” là say êm, say nhẹ, say rồi ngủ quên đi lúc nào chẳng biết. Chẳng phải là say bét nhè, bê tha. Nguyễn Khuyến rất thanh cao, chỉ có “năm ba chén” nhỏ, đúng là cái thú “Khi vui chén rượu say không biết” hoặc “Khi hứng uống thêm năm chén rượu – Khi buồn ngâm láo một câu thơ” (Đại lão)
Trong sáu câu thơ đầu thì đã có đến năm câu đều có màu sắc thể hiện một cái nhìn đếm thu lúc ngồi uống rượu một mình. Có màu đen thẫm mịt mùng của đêm sâu “ngõ tối”. Có ánh sáng “lập loè” của bầy đom đóm. Có sắc trắng nhờ của “màu khói nhạt” nhẹ bay “phất phơ” trên lưng giậu cúc tần trước sân của năm gian nhà cỏ bình dị. Có màu vàng của bóng trăng loe tan ra “lóng lánh” trên làn ao “sóng biếc theo làn hơi gợn tí” trong veo. Có da trời màu “xanh ngắt” rất đẹp. Và sắc “đỏ hoe” của đôi mắt ông lão, của thi nhân đang uống rượu âm thầm.
Cảnh vật có đường nét cao, thấp, xa, gần, mỏng và nhẹ. Độ “thấp le te” của ngôi nhà cỏ năm gian. Độ sâu của đêm khuya và “ngõ tối” nơi làng quê vùng đồng chiêm trũng. Độ nhẹ vờn bay “phất phơ” của màu khói nhạt. Chiều đo “thấp” của “lưng giậu”, nét gợi của “làn ao”, vòng tròn của “bóng trăng loe” trên mặt “ao thu lạnh lẽo”, độ xa, cao, rộng của bầu trời, chân trời, độ hõm của đôi mắt “đỏ hoe” đã “say nhè”.
Màu sắc ấy, đường nét ấy qua cái nhìn chập chờn, tỉnh say say tỉnh của nhà thơ. Màu sắc đường nét ấy là màu sắc của tâm tưởng, là đường nét của tâm trạng. Còn đâu nữa, chén rượu tri âm của đôi bạn “đăng khoa ngày trước?”.
“Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân?”.
Nay nhà thơ chỉ còn uống rượu trong đêm sâu, âm thầm, lặng lẽ và cô đơn. Cao Bá Quát nửa đầu thế kỷ XIX chỉ uống rượu “tiêu sầu”. Còn Nguyễn Khuyến “đêm thu nay’’ uống rượu cho vơi đi nỗi buồn thế sự “Rằng quan nhà Nguyễn nhà Nguyễn cáo về đã lâu” uống rượu để thao thức, thao thức nên uống rượu để vơi đi nỗi đau cuộc đời: “Có phải tiếc xuân mà đứng gọi – Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ (Cuốc kêu cảm hứng). Vợ chết, con mất, bạn chí thân qua đời, tuổi già, ốm đau, Nguyễn Khuyến mượn “năm ba chén rượu” để vợi đi ít nhiều nỗi buồn cô đơn:
“Đời loạn đi về như hạc độc,
Tuổi già hình bóng tựa mây côi”.
( Gửi bạn)
Hình như chén rượu của nhà thơ đã tràn đầy nước mắt? Hai câu kết ý tại ngôn ngoại. Thấm một nỗi buồn mênh mông. Người đọc vô cùng xúc động khi thấy nhà thơ “say nhè” nằm ngủ:
“Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy,
Độ năm ba chén đã say nhè”.
Cả bài thơ, ngoài đầu đề “Thu ẩm” ra, chẳng có một chữ thu nào nữa, thế mà câu thơ nào cũng chứa đựng một tình thu, và hồn thu man mác, dào dạt. Đó là chất thi vị độc đáo của bài thơ này. Các từ láy: le te, lập loè, phất phơ, lóng lánh… với các từ “rượu”, “chén”, “say nhè” – cho thấy nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến vô cùng tinh luyện, hình tượng và biểu cảm.
Trước Nguyễn Khuyến gần 500 năm, Nguyễn Trãi có câu thơ:
“Sách một hai phiên làm bầu bạn
Rượu năm ba chén đổi công danh”.
(Tự thán – 10)
Sau khi Nguyễn Khuyến mất gần nửa thế kỉ, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng có câu thơ nói về rượu: “Du kích quy lai tửu vị tàn”. (Thu dạ, 1948)
Đó là những chén rượu một thời, cũng là những chén rượu một đời. Chén rượu của các thi nhân – chén rượu thanh cao và sang trọng.
Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến - mẫu 5
Hình như trong thi ca - nhắc đến mùa thu là nhắc đến nỗi buồn - nỗi buồn trải ra với đầy đủ cung bậc: từ buồn thương, buồn nhở, buồn man mác... Nhưng với mỗi thi nhân, nỗi buồn lại gắn với một tâm sự khác nhau. Đến với Thu ẩm của Nguyễn Khuyến - nhà thơ của làng cảnh Việt Nam - người đọc lại được chiêm ngưỡng một bức tranh thu với với đủ sắc màu và âm thanh dưới cái nhìn, dưới con mắt của một thi nhân, của một con người đang đơn độc nâng chén với cuộc đời. Nhan đề “Thu âm” - mùa thu uống rượu - là nhãn tự, là nơi nói lên nội dung chính của bài thơ.
Có thể nói, trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, chỉ có bài Thu điếu là nhất quán về không gian, về thời gian. Còn ở bài Thu vịnh và Thu ẩm khó có thể xác định một không gian, thời gian cụ thể nào. Có thể nhà thơ Nguyễn Khuyến uống rượu làm thơ trong một đêm thu nào đó nhưng cảnh thu không nhất thiết là cảnh đêm thu. Khi cái say men đã làm thi nhân hơi chếnh choáng thì các hình ảnh lần lượt hiện về trong tâm trí dệt nên bức tranh thu đa dạng.
Vẫn bằng bút pháp hiện thực quen thuộc, bằng lời thơ bình dị, Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng cảnh:
Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập lòe.
Nơi nhà thơ đang uống rượu làm thơ không phải là thư phòng, thư sảnh của lầu son gác tía nào mà chỉ là ngôi nhà cô đơn sơ bình dị nơi thôn dã, một ngôi nhà lợp bằng rơm rạ “thấp le te”. Từ nơi ấy thi nhân nhìn ra chỉ thấy màn đêm sâu thẳm. Đó là một đêm tối gợi lên chiều sâu không cùng, tối tăm, ánh sáng đom đóm mới lập lòe như thế. Trong đêm thu trời tối, Nguyễn Khuyến trầm ngâm bên chén rượu, những cảnh thu ở nhiều nơi cứ lập lòe ẩn hiện trong tâm trí của thi nhân. Đó là cảnh chiều thu quê hương yên ả, đầm ấm:
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt.
Đó là cảnh đêm trăng mùa thu được cảm nhận từ phía ao nhà: “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”. Đó là cảnh mùa thu trong một ngày nắng đẹp: “Da trời ai nhuộm màu xanh ngắt”. Cảnh trong tâm tưởng mà rất thực, rất bình dị. Đó là cảnh quê, hồn quê từ lâu đã thấm sâu, hòa nhập vào tâm hồn Nguyễn Khuyến để khi làm thơ thi hứng lại gọi về. Trăng mùa thu là thi liệu quen thuộc nhưng thi liệu ấy lại trở nên mới mẻ sinh động lạ thường khi được nhìn qua đôi mắt của thi sĩ làng quê Yên Đổ. Nhà thơ Xuân Diệu cho đây “là một câu thơ hiếm có”, một phát hiện của nhà thơ có tài: “... câu Làn ao lóng lánh bóng trăng loe, là của một thi sĩ thật có tài, bóng trăng vàng từ mặt nước ao sáng lóe ra, bốn chữ khả năng (làn, lóng, lánh, loe) gợi chất vàng nước kim loại, ba dấu sắc khứ thanh (lóng, lánh, bóng) gợi ánh bắn đi; từ loe, âm oe gợi cái gì tròn (tròn xoe) như cái ao chẳng hạn”. Xuân Diệu đã phân tích rất tinh tế khả năng gợi tả của ngôn ngữ ở phương diện ngữ âm. Nhưng để có cái hay, cái đẹp, cái độc đáo ấy trước hết là ở cách nhìn, ở hướng tiếp cận. Thi sĩ bao đời nay miêu tả trăng thu. Nhìn trăng qua ao mới có vẻ đẹp lóng lánh như thế, trăng từ trong ao hắt ánh sáng lên mới tạo ra những chùm sáng lòe như thế. Một thi sĩ tài năng thì không có đề tài nào là mòn cũ, không có câu chữ nào là mất đi sức sống.
Thu ẩm là mùa thu uống rượu mà mãi cuối bài thơ mới thấy hình ảnh người uống rượu xuất hiện:
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
Đó là chân dung tự họa của nhà thơ Nguyễn Khuyến trong những năm tháng ẩn dật ở quê nhà. Nỗi niềm gì đang xót lòng xót dạ người nho sĩ ấy đến mức mắt đỏ hoe, rớm máu? Từ đôi mắt, người đọc nhìn thấu nỗi buồn đau của cụ Tam Nguyên. Đã từng đỗ đầu thi hương, thi hội đã từng được vua ban chức này tước nọ mà Nguyễn Khuyến không chút đắc ý về cuộc đời mình. Có lúc ông còn thấy việc học cũ là viển vông vô ích, việc làm quan trong thời buổi ấy là nỗi nhục. Tưởng là trở về vườn xưa chốn cũ để thanh thản nỗi lòng, nào ngờ đâu lòng vẫn nặng buồn đau:
Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn
Tình thương hải tang điền qua mấy lớp.
(Trở về vườn cũ)
Để dịu bớt cơn đau, để khuây khỏa nỗi buồn, Nguyễn Khuyến đã làm bạn với túi thơ, bầu rượu. Ở Trung Quốc có nhà thơ Lí Bạch làm nhiều bài thơ về rượu, ở nước Nam ta không có ai nói về rượu trong thơ nhiều như Nguyễn Khuyến. Nhà thơ hay uống rượu nhưng chả uống được nhiều. Người ta uống rượu để mà quên, để mà say còn Nguyễn Khuyến uống rượu lại càng nhớ, lại càng buồn. Cái tôi trữ tình của nhà thơ trong bài Thu ẩm bề ngoài thì có vẻ say nhè nhưng thực chất là rất tỉnh. Say nhè để quên mọi chuyện nhưng nhà thơ không quên được nỗi đau buồn về non sông đất nước.
Bức tranh thi nhân uống rượu trong đêm thu khép lại với những vần thơ đầy xúc động. Có bài thơ, ngoài nhan đề Thu ẩm - chẳng có thêm một chữ “thu” nào, thế mà hồn thu, hơi thu lan tỏa khắp không gian, thấm vào vạn vật và dư âm thu vẫn lan tỏa mãi trong lòng người đọc. Với Thu ẩm, nhà thơ đã viết nên một áng thơ mang đậm dấu ấn và âm hưởng riêng của một Nguyễn Khuyến tài tình và tinh tế, qua đó bộc lộ tâm sự, nỗi buồn về vận nước. Niềm yêu nước của Nguyễn Khuyến biểu hiện thâm trầm, kín đáo mà không kém phần sâu sắc.
Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến - mẫu 6
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền văn học dân tộc, có nhiều bài thơ viết về mùa thu bằng chữ Hán và chữ Nôm. Thu ẩm là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh. Chùm thơ này đã tôn vinh Nguyễn Khuyến lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu của quê hương, làng cảnh Việt Nam.
Nhan đề bài thơ “Thu ẩm” có nghĩa là mùa thu uống rượu. Đây là một trong ba bài thơ Nôm nói về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá), Thu vịnh (Mùa thu làm thơ), Thu ẩm (Mùa thu uống rượu). Chùm thơ này là dáng thu, hổn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.
Trong bài Thu ẩm này, ở đây dáng thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ được đưa vào trong bài. Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà chén rượu giải sầu. Nhưng cũng chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị .
Ba gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.
“Nhà cỏ”, dùng để chỉ ngôi nhà đơn sơ, nhưng thấp le te thì đã cho thấy là lụp xụp và chẳng còn lành lặn. Mái tranh đã rách nát, xác xơ. Tiếp đến ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm lập lòe lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối và đêm sâu cũng biến dạng.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không vẩy cũng đỏ hoe.
Da trời không biết ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy sao cũng đỏ hoe? Hay là do say rượu. Hình ảnh trung tâm của bài thơ là “Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe”. Câu thơ đã diễn tả trạng thái ngà ngà say đến “say nhè”: “Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy – Độ năm ba chén đã say nhè”. “Say nhè” là say êm, say nhẹ, say rồi ngủ quên đi lúc nào chẳng biết. Chẳng phải là say bét nhè, bê tha.
Trong sáu câu thơ đầu thì đã có đến năm câu đều có màu sắc thể hiện một cái nhìn đếm thu lúc ngồi uống rượu một mình. Có màu đen thẫm mịt mùng của đêm sâu ngõ tối. Có ánh sáng “lập loè” của bầy đom đóm. Có sắc trắng nhờ của “màu khói nhạt” nhẹ bay “phất phơ” trên lưng giậu cúc tần trước sân của năm gian nhà cỏ bình dị. Có màu vàng của bóng trăng loe tan ra lóng lánh trên làn ao “sóng biếc theo làn hơi gợn tí” trong veo. Có da trời màu “xanh ngắt” rất đẹp. Và sắc “đỏ hoe” của đôi mắt ông lão, của thi nhân đang uống rượu âm thầm.
Cuối cùng là tửu lượng của nhà thơ cũng chẳng còn bình thường:
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy
Chỉ dăm ba chén đã say nhè.
Tại sao cảnh vật lại có sự biến hình đổi dạng như thế? Do người nhìn say rượu chăng bởi khi say thì nhìn một hoá thành hai, thành ba hoặc nhạt nhoà tất cả. Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo như say.
Bài thơ, ngoài đầu đề “Thu ẩm” ra, chẳng có một chữ thu nào nữa, thế mà câu thơ nào cũng chứa đựng một tình thu, và hồn thu man mác, dào dạt. Đó là chất thi vị độc đáo của bài thơ này. Các từ láy: le te, lập loè, phất phơ, lóng lánh… với các từ rượu, chén, say nhè, cho thấy nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến vô cùng tinh luyện, hình tượng và biểu cảm.
Với bài “Thu ẩm”, nhà thơ thể hiện sự buồn bã, day dứt trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây nhưng càng uống lại càng thấy nỗi niềm đó hiện ra rõ rệt hơn. Tất cả cũng đều vì tình yêu quê hương đất nước của tác giả.
Bài văn phân tích bài thơ "Thu ẩm" của Nguyễn Khuyến - mẫu 7
Nguyễn Khuyễn là một nhà thơ tài năng, cốt cách thanh cao, một lòng yêu nước thương dân, từng từ bỏ chốn quan trường vốn là nơi có thể tu chí lập nghiệp vì chán ghét chính quyền thực dân Pháp và bộ máy nhà nước phong kiến thối nát. Ông có một sự nghiệp thơ từ đồ sộ bao gồm cả chữ Hán và Nôm, trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến chùm thơ thu bằng chữ Nôm và Thu ẩm là một trong ba bài thơ nức danh đó.
Nhan đề "Thu ẩm" đại khái được hiểu là mùa thu, uống rượu, uống ở đây không phải là nốc ừng ực cả chai, cả bầu mà là sự nhâm nhi thưởng thức đầy văn nhã của một thi sĩ nhân cảnh mùa thu trữ tình. Hai câu đầu như sau:
"Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè."
Khác với Thu vịnh, cảnh mùa thu của Thu ẩm lại hiện lên trong đôi mắt của vị thi nhân ngà ngà men rượu là khung cảnh tối tăm, im ắng, đậm chất làng quê bình dị với "Năm gian nhà cỏ thấp le te". Nơi đây cũng chẳng sáng bừng ánh đèn như chốn phồn hoa kinh thành mà thay vào đó là những con "ngõ tối" cùng với ánh sáng "lập lòe" của đom đóm đang dạo đêm kiếm bạn. Là những màn sương đêm giăng "phất phơ" như màu "khói nhạt" bên lưng giậu, là hình ảnh "bóng trăng loe" nhàn nhạt đang "lóng lánh" trên mặt ao phẳng lặng trước sân nhà. Và hơn tất cả bầu trời mùa thu vẫn luôn là điểm nhấn đặc sắc với một màu "xanh ngắt" nền nã, trong trẻo, như được ai dồn hết cả tâm sức mà nhuộm lên. Trái ngược với cái màu xanh thanh mát của trời thu là sắc "đỏ hoe" ấm nóng trong đôi mắt của người đang âm thầm thưởng rượu, cảm nhận cái cảm giác được say.
Bài thơ đặc biệt ở chỗ trong sáu câu thơ đầu tả cảnh, tả người, nếu tinh ý người ta sẽ nhận ra được những nét bút cao thấp, gần xa, lúc đậm nhạt. Thấp trong "Năm gian nhà cỏ thấp le te", thấy được độ sâu của bóng "đêm sâu" dài hun hút, cũng thấy cả sương khói nhạt nhòa vương bên giậu cúc tần trồng trước nhà, lại thấy được cả cái màu "xanh ngắt" đậm đà trên nền trời cao thăm thẳm. Rồi cả cái mỏng nhẹ của ánh trăng "lóng lánh" khi bóng trăng phủ lên mặt ao, "loe" ra một màu nhàn nhạt như dát vàng. Đến câu "Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe", ta lại chợt mường tượng ra một đôi mắt hơi sâu, chứa đựng trong đó là một cánh cửa tâm hồn mơ màng trong men rượu, say trong cảnh mùa thu thanh tĩnh, dịu dàng.
Ở hai câu thơ cuối:
"Rượu tiếng rằng hay hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè"
Đây là lời thi nhân, nhận xét vu vơ về rượu, nhà thơ thường nghe người đời ca tụng rượu là thú vui tao nhã, uống vào khoan khái tâm hồn, nhưng với nhà thơ ông lại thấy "hay chả mấy", ý bảo chẳng như lời đồn, làm chi có thứ tuyệt diệu thế. Thú vị hơn, thi nhân cũng không phải người biết uống rượu, thế nên "Độ năm ba chén đã say nhè", đôi khi ta suy nghĩ rằng liệu có phải thi nhân lần đầu hoặc hiếm khi uống rượu không nhỉ? Nếu vậy thì cớ sự nào khiến nhà thơ tìm đến rượu? Xưa nay người ta vẫn thường ví, uống rượu, câu cá, làm thơ là ba thú vui ta nhã của những kẻ ẩn dật, thong dong hay uống rượu, ngắm hoa, vịnh trăng là thú vui thanh cao tao nhã mà văn nhân, thi sĩ hay làm. Ở đây nhà thơ say nhưng cái cốt cách văn nhã, quân tử vẫn cò đó, chỉ bằng một từ nhẹ nhàng "say nhè", say nhưng không làm ồn ã, náo động mà chỉ đơn giản là yên ắng, âm thầm ngả lưng xuống chiếu, mở đôi mắt đỏ hoe ngắm trăng ngắm trời rồi thiu thiu vào giấc ngủ. Cái khung cảnh uống rượu của Nguyễn Khuyến khiến chúng ta liên tưởng đến sự cô đơn trống vắng trong từng cảnh vật và cả trong tâm tưởng của nhà thơ. Bởi chỉ nhìn phong thái uống rượu ta cũng đã nhận ra Nguyễn Khuyến buồn, thứ nhất là buồn trước thế sự đổi thay, đất nước loạn lạc, tiếp nữa là buồn trước cảnh cô đơn của bản thân khi những người thân yêu lần lượt ra đi trước, chịu cảnh kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh. Còn một mình nhà thơ ở lại sống lay lắt với những chứng bệnh tật tuổi già, chẳng còn cách nào để quên, ông bèn tìm đến rượu, bởi với ông chỉ vài ba chén đã say, mà say thì ngủ, ngủ thì không nhớ, không sầu. Thật xót xa cho bậc quân tử lại tài năng mà gặp thời cuộc xui rủi, nhiễu nhương.
Thu ẩm của Nguyến Khuyến là cảnh thu, chén rượu đắng cay của thi nhân trước khốn cảnh cuộc đời. Cả bài thơ ngoại trừ nhan đề, chẳng ai thấy tác giả nhắc đến chữ "thu" nào nữa cả, nhưng đấy lại là cái hay và độc đáo của một bài thơ tưởng không phải mùa thu mà lại là mùa thu. Một mùa thu nhẹ nhàng, trầm lắng, man mác nỗi buồn, nỗi cô đơn của thi nhân, qua đó cũng thấy được sự tinh tế và tài năng trong phong cách làm thơ của Nguyễn Khuyến.