Giải SBT Ngữ Văn 6 Bài 5: Đọc trang 61, 62, 63 - Chân trời sáng tạo Sách bài tập Ngữ văn 6
Giải SBT Ngữ Văn 6 Bài 5: Đọc trang 61, 62, 63 - Chân trời sáng tạo
Haylamdo biên soạn và sưu tầm lời giải Sách bài tập Ngữ Văn lớp 6 Bài 5: Đọc trang 61, 62, 63 bộ sách Chân trời sáng tạo chi tiết được Giáo viên biên soạn bám sát chương trình Sách bài tập Ngữ Văn 6 giúp học sinh làm bài tập về nhà trong SBT Ngữ Văn 6 dễ dàng hơn.
Trả lời:
Kí |
Là thể loại văn học coi trọng sự thật và những sự thật và những trải nghiệm, chứng kiến của chính người viết. Trong kí, có những tác phảm thiên về kể sự việc (tự sự), có những tác phẩm thiên về biểu cảm (trữ tình). Trong kí tự sự có hồi kí và du kí. |
|
Hồi kí |
Khái niệm |
Chủ yếu kể lại những sự việc mà người viết đã từng tham dự hoặc chứng kiến trong quá khứ. Các sự việc trong hồi kí thường được kể theo trình tự thời gian, gắn với một hoặc nhiều giai đoạn trong cuộc đời tác giả. Nhân vật xưng “tôi” trong hồi kí là hình ảnh của tác giả. |
Người kể chuyện |
Thường xưng “tôi”, “chúng tôi”, là hình ảnh của tác giả, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với tác giả. Bởi vì giữa tác giả và người kể chuyện ngôi thứ nhất trong hồi kí luôn có những khoảng cách về tuổi tác, thời gian hay những sự khác biệt trong nhận thức, quan niệm… |
|
Hình thức ghi chép và cách kể sự việc. |
“Ghi chép” hiểu theo cách thông thường là việc chuẩn bị nguồn tư liệu về những điều có thật, đã xảy ra để viết nên tác phẩm. Tư liệu được “ghi chép”, hiểu cách khác, cũng chính là viết, kể, sáng tác. Theo nghĩa này, người viết hồi kí không thể bê nguyên cái có thật, từng xảy ra ngoài đời vào văn bản mà phải ghi sao cho thành chuyện và kể sao cho hấp dẫn, sâu sắc. |
a. Kể lại sự việc mà người viết từng tham gia, chứng kiến.
b. Sự việc được kể đã thuộc về quá khứ.
c. Các sự việc thường được kể theo trình tự không gian.
d. Sự việc gắn với một hoặc nhiều giai đoạn trong cuộc đời của tác giả.
Trả lời:
Đáp án c
a. Kể lại sự việc từ ngôi thứ nhất.
b. Tác giả chính là người kể chuyện.
c. Câu chuyện chủ yếu được kể theo trình tự thời gian.
d. Những gì được ghi chép gắn với hành trình những chuyến đi.
Trả lời:
Đáp án c
Cây mít sum sê bụ bẫm, đầy cành và lá, ở ngay cạnh vại nước. Bóng nó soi xuống làm cho vại nước suốt ngày thêm trong mát lừ. Khi mưa, hứng cái mo cau vào, nó cho đầy nước mưa. Chúng tôi ai cũng yêu nó. Nhưng mỗi một tội: Cái việc chính của nó, nó không làm. Ấy là ra quả. Phải ra quả!
U bảo:
- Nước cứ xô chỗ trũng. Nhà mình nghèo ở vào cái đất xấu. Mít nhà người ta ra quả lớn quả bé. Mai, thổng buổi, thằng Thả leo lên, u lấy chày tay đập vào gốc. U hỏi: “Mùa này mày ra mấy quả?” Thả giả lời: - “Hai quả” nhá!
Đến mùa, nó ra bao nhiêu quả. Cả nhà mừng. Nhưng rồi rụng, chỉ còn một quả. Quả rất chóng lớn. Nó chín thơm. Cả nhà được bữa thòm thèm! [...].
Cây đu đủ cao vượt cái “tường hoa”. Những tàu lá già, vàng, chúng tôi tha hỗ cắt cuỗng mà thôi tu tu. Từng chùm quả. Quả nào cũng chỉ bằng cái chén rồi không nhớn nữa! Đói quá. Anh Thả và tôi cứ hái đần, băm ra hết nhựa, gọt vỏ, cắt từng miếng, cho vào sanh luộc. Mỗi người ăn hai quả là no căng bụng. Hết nạc, Vạc đến xương! Quả hết. Anh Thả chặt ngọn cây, nạo vỏ thân cây, tiện dần từng khúc. Anh lấy dao bài thái nhỏ như sợi nem, vo lẫn với gạo, nấu thành “cơm trộn thân cây đu đủ”[... ].
Thầy nghĩ ra cách: Hễ sinh mỗi người con, thầy trồng một cây na. Thấm thoắt đã được bón cây. Cây anh Thư đứng chính giữa, cao nhất, tốt nhất. Rồi cứ lần lượt: cây anh Thả, cây Khán, cây Bảng... Bốn cây cùng tốt. Hè về, hoa thơm lừng rụng xuống sân. Ong, bướm, cánh quýt về bay rợp đầu sân, nhưng nó cũng làm rụng oan nhiều hoa cái.
Những quả na nhằm nghiền mắt rồi mở mắt dần. Đêm thì dơi. Ngày thì chào mào tìm đến. Nếu không tinh thì nó ăn hớt trước. Cây na của cái Bảng bé nhất bỗng cằn cối, lại bị sâu. Sâu đục, thân cây chảy nhựa ròng ròng. Anh Thả khoét rất khéo mới lôi được sâu ra. [...]. Cây tốt đần và mọc những cành tơ.
Một buổi sáng, u đi đâu về thấy một bà quảy hai rồ sề.
Thôi, u bán na rồi! Chúng tôi leo lên, chọn quả sắp chín, quả mở mắt, hái xuống để một đống góc sân. Bà hàng ra chọn mua đầy hai rổ sề, còn có vài quả chín nứt nở “như đe thợ rào” và những quả còi kĩnh, chúng tôi chia nhau. U cũng ăn thử. Ngọt lắm.
(Duy Khán, trích Tuổi thơ im lặng, chương 5)
a. Hình ảnh cây cối trong văn bản trên được miêu tả qua cảm nhận của ai, theo ngôi kể nào? Chỉ ra mối liên hệ giữa người kể chuyện trong văn bản và tác giả Duy Khán.
b. Dựa vào các loài cây được nói đến để chia văn bản thành nhiều đoạn. Đặt cho nhan đề cho văn bản và đề mục cho mỗi đoạn văn bản.
c. Tìm và phân tích một số chi tiết thể hiện sự gắn bó, thân thiết giữa anh em của “tôi”, thầy u của “tôi” với mỗi loài cây trong vườn.
d. Tìm và phân tích khoảng ba chi tiết để thấy tác dụng của việc kết hợp giữa miêu tả và kể chuyện trong văn bản.
đ. Một số bạn cho rằng: đọc văn bản, họ cảm thấy cây mít, cây đu đủ, cây na trong đó cũng là những nhân vật sinh động, đáng yêu. Cách cảm nhận như vậy có gì giống có gì khác với cảm nhận của em về văn bản?
e. Nêu và phân tích biện pháp nghệ thuật mà theo em là được sử dụng phù hợp, thành công nhất trong văn bản.
g. Những dấu hiệu nào giúp em nhận biết văn bản trên thuộc thể hồi kí?
Trả lời:
a. HS cần trả lời được hai ý:
- Hình ảnh cây cối trong văn bản trên được miêu tả qua cảm nhận của tác giả khi còn nhỏ, theo ngôi kế “chúng tôi”.
- Mối liên hệ giữa người kể chuyện trong văn bản và tác giả Duy Khán là mối quan hệ gần gũi nhưng không đồng nhất hoàn toàn. Lí do: các sự kiện về tuổi thơ được Duy Khán kể lại khi ông đã trưởng thành, do đó có những khoảng cách về tuổi tác, thời gian và những khác biệt trong nhận thức, quan niệm...
b. Nhan đề văn bản có thể là: Vườn nhà, hoặc Cây trong vườn nhà, Người nhà và cây cối,.... Dựa vào ba đoạn, đoạn kể về cây mít, cây đu đủ, cây na (mãng cầu), ta có thể đặt tên cho các đoạn là: Cây mít (đoạn 1), Cây đu đủ (đoạn 2), Cây na (đoạn 3).
c. văn bản được trích trong đề bài có rất nhiều chi tiết thể hiện sự gắn bó, thân thiết giữa anh em của “tôi”, thầy u của “tôi” với mỗi loài cây trong vườn. Cách làm: em nên liệt kê các chi tiết theo ba nhóm:
- Nhóm 1: Những chi tiết thể hiện sự gắn bó của cả gia đình (bao gồm cả anh em của “tôi”, thầy u của “tôi”) với các loài cây trong vườn nhà.
- Những chi tiết thể hiện sự gắn bó mỗi người một kiểu giữa anh em của “tôi”, thầy u của “tôi” với các loài cây trong vườn nhà.
d. Để thực hiện bài tập này, em đọc lại văn bản và liệt kê được khoảng 3 chi tiết và nêu tác dụng (điền vào bảng sau):
Chi tiết có sự kết hợp giữa miêu tả và kể chuyện |
Tác dụng |
“Đến mùa, nó ra bao nhiêu quả. Cả nhà mừng. ” |
Sự vui vẻ của cả nhà khi thấy cây ra nhiều quả khi đến mùa. |
“Nhưng rồi rụng, chỉ còn một quả. Quả rất chóng lớn. Nó chín thơm. Cả nhà được bữa thòm thèm!” |
Kể chuyện về quả mít và miêu tả cảm xúc của cả nhà khi mít chín. |
đ. Em hãy nêu một vài ý về cách cảm nhận của em về cây mít, cây đu đủ, cây na khi đọc văn bản. Sau đó, so sánh cách cảm nhận của mình với cách cảm nhận của tác giả.
e. Em nên thực hiện bài tập này theo 2 bước:
Bước 1: Xác định biện pháp nghệ thuật mà theo em là tác giả văn bản trên đã sử dụng phù hợp, thành công nhất;
Bước 2: Phân tích hiệu quả, tác dụng của biện pháp nghệ thuật ấy qua một số dẫn chứng cụ thể.
Lưu ý:
- Khi lựa chọn biện pháp nghệ thuật để phân tích, em cần nhớ rằng: Trong một văn bản tự sự, tác giả có thể sử dụng phối hợp nhiều biện pháp nghệ thuật. Mỗi độc giả có thể đánh giá cao hiệu quả, tác dụng của một biện pháp nghệ thuật nào đó theo cách cảm nhận của mình. Chẳng hạn, em có thể đánh giá cao biện pháp nhân hoá, bạn khác có thể đánh giá cao biện pháp so sánh, ẩn dụ, hoặc hoán dụ....
- Khi phân tích “sự phù hợp, thành công” của biện pháp nghệ thuật mà mình đánh giá cao, em cần chỉ ra được tác dụng, hiệu quả của biện pháp nghệ thuật ấy trong việc thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả. Trong trường hợp này, em cần chỉ ra: biện pháp nghệ thuật mà em chọn phân tích đã góp phần làm cho việc thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa người trong gia đình tác giả với cây cối trong vườn trở nên sáng rõ, sâu sắc, thấm thía như thể nào.
g. Đấy là tác phẩm hồi kí vì nó là câu chuyện kể về những kí ức của chính tác giả đã được trải qua, đó là kí ức về tuổi thơ bên gia đình.
Câu chuyện được kể theo ngôi thứ nhất, xưng là “chúng tôi”.