SBT Ngữ văn 7 Dọc đường xứ Nghệ - Cánh diều
Haylamdo biên soạn và sưu tầm lời giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 7 Dọc đường xứ Nghệ sách Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 7.
Giải SBT Ngữ văn 7 Dọc đường xứ Nghệ - Cánh diều
Trả lời:
- Câu chuyện được kể theo ngôi thứ ba.
- Tác dụng: giúp câu chuyện được kể một cách linh hoạt, khách quan.
Trả lời:
- Những câu hỏi và sự lí giải về sự kiện lịch sử cho thấy cậu bé Côn là một người ham học hỏi, luôn muốn được tìm hiểu tường tận mọi việc. Cậu là một người yêu nước, biết lo xa, luôn suy nghĩ thấu đáo mọi việc.
Trả lời:
Qua việc đưa con đi thăm các di tích lịch sử, văn hóa và giảng giải cho con hiểu về các di tích đó, nhân vật quan Phó bảng đã hướng các con đến nhiều giá trị tỏng việc tu dưỡng làm người. Chẳng hạn, khi kể lại cho con nghe chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy, quan Phó bảng muốn con thấy được: sống cần biết tôn trọng chữ “tín”, phải biết cảnh giác, đừng nhẹ dạ tin người và cần có lòng tự trọng “chết vinh còn hơn sống nhục”. Đạo lí đó thể hiện trong lời nói của cậu bé Côn: “vua nhà Triệu nước Tàu nham hiểm ghê gớm … Còn vua nhà Thục nước ta lại trọng chữ tín, … không đề phòng sự gian giảo, bội ước của vua nhà Triệu. Nàng Mỵ Châu lại ruột để ngoài da. Cha vậy, con vậy thì giữ nước làm sao được? Nhưng câu chuyện lại cho thấy điều đáng trọng, không khinh được của vua Thục là: Người đã phải tự chém con gái mình và tự xử án mình bằng hành động nhảy xuống biển về tội để mất nước chứ không cam chịu nộp mình cho giặc.”.
Trả lời:
Có thể thấy rất rõ đặc điểm tính cách của hai cha con quan Phó bảng trong văn bản Dọc đường xứ nghệ. Cả quan Phó bảng và cậu bé Côn đều ham thích các câu chuyện liên quan đến lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, đến các giá trị văn hóa – văn học của dân tộc.
+ Ông Phó bảng là người am hiểu sâu sắc lịch sử nước nhà, thể hiện lòng yêu nước một cách thẳng thắn, trung thực, rõ ràng; muốn con mình hiểu và sống theo các đạo lí tốt đẹp ấy.
+ Cậu bé Nguyễn Sinh Côn thể hiện tư chất thông minh, ham học hỏi, có cá tính và bản lĩnh ngay từ khi còn rất nhỏ.
Câu 5 trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Quan Phó bảng Sắc hơi sững sờ nhìn hai con, nhìn ngôi đền thờ Thục Phán:
- Con nói đúng. Nước có lúc thịnh, lúc suy. Đó là điều thường thấy trong trời đất. Nhưng con người ta lại phải biết giữ trọn khí tiết. Vua Thục Phán thuộc loại đó. Con hãy để ý về phong cảnh núi non, đền đài. Con vừa hỏi cha về hòn núi kia giống một người cụt đầu. Người ta thường gọi nó là hòn Hai Vai hoặc là núi “Tướng quân rơi đầu” đó con ạ. Còn phía xa xa kia là hòn Trống Thủng. Từ hòn Trống Thủng, một dãy núi dài dằng dặc sát chân trời, đó là núi Cờ Rách.
a. Tại sao đang nói chuyện Thục Phán – An Dương Vương, nhân vật quan Phó bảng lại chuyển sang nói về núi non quê hương với những hòn Hai Vai, Trống Thủng, núi Cờ Rách, …?
b. Bài học mà nhân vật quan Phó bảng muốn nhắn nhủ hai con ở đây là gì?
Trả lời:
a. Đang nói chuyện Thục Phán – An Dương Vương, quan Phó bảng lại chuyển sang nói về núi non quê hương với những hòn Hai Vai, Trống Thủng, núi Cờ Rách, … là có ý muốn con mình hướng tới câu chuyện quê hương, nhớ tới những sự tích oai hùng của nhân dân mình hiện vẫn để lại dấu tích ngay trên quê hương, đất nước.
b. Bài học mà quan Phó bảng muốn nhắn nhủ hai con ở đây là cha ông mình một thời đã anh dũng, bất khuất, không chịu sống quỳ, luôn giữ trọn khí tiết, thà chết trong chứ không sống đục nên “hòn núi kia giống một người cụt đầu … là núi “Tướng quân rơi đầu” … Còn phía xa xa kia là hòn Trống Thủng, … là núi Cờ Rách.”. Mỗi địa danh đều là sự tích về sự thất thủ, hi sinh nhưng luôn “giữ trọn khí tiết”.