SBT Ngữ văn 7 Bài tập 4 trang 13 Kết nối tri thức
Đọc lại văn bản Chiếc đũa thần trong SGK (tr. 51 - 53) và trả lời các câu hỏi:
Giải SBT Ngữ văn 7 Bài tập 4 trang 13 Kết nối tri thức
Bài tập 4. trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 2: Đọc lại văn bản Chiếc đũa thần trong SGK (tr. 51 - 53) và trả lời các câu hỏi:
Trả lời:
Người kể chuyện ngôi thứ ba, “giấu mình” khiến người đọc có cảm giác câu chuyện đang tự nó diễn ra. Ngôi kể này có khả năng “thấu suốt” mọi chuyện, khách quan nhìn nhận và đánh giá sự việc.
Trả lời:
Nhân vật Mơ-ven Ma-xơ đã tiến hành thí nghiệm để phát minh ra “chiếc đũa thần” một thiết bị nhằm rút ngắn khoảng cách thời gian và không gian giữa Trái Đất với các hành tinh trong thiên hà. Phát minh này nếu thành công sẽ giúp con người trên Trái Đất liên lạc nhanh hơn với các hành tinh khác và tìm ra hành tinh có sự sống giống như Trái Đất.
Trả lời:
Em hãy huy động trí tưởng tượng của mình để hình dung về bức tranh thế giới trong tương lai khi các nhà khoa học vũ trụ phát hiện ra hành tinh có sự sống như Trái Đất. Khi đó, Trái Đất và hành tinh đó có thể có những kết nối để khám phá nền văn minh của nhau hoặc trao đổi khoa học công nghệ.
Câu 4 trang 13 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 2: Hãy chỉ ra công dụng của dấu ngoặc kép trong các câu sau:
a. Đấy là một trong số những thiên hà hiếm hoi mà chúng ta trông thấy ở vị trí nằm theo phương vuông góc với mặt phẳng của “bánh xe“
b. Thời hạn truyền tin lâu hàng triệu năm, hàng chục ngàn thế hệ nối tiếp nhau cũng chưa chờ đợi nổi, điều đó có nghĩa là “không bao giờ; dù là đối với hậu thế xa xôi nhất.
Trả lời:
a. Dấu ngoặc kép ở từ bánh xe đánh dấu từ ngữ được hiểu theo nghĩa đặc biệt. Từ bánh xe ở đây chỉ thiên hà khổng lồ NGK 4565 trong chòm Tóc Vê-rô-nhi-ca, nhằm nói tới hình dáng thiên hà như cái đĩa mảnh, có nhân hình cầu rất bẹt, chuyển động, giống như bánh xe của bộ máy đồng hồ.
b. Dấu ngoặc kép ở trường hợp này đánh dấu từ ngữ được hiểu theo nghĩa đặc biệt nhấn mạnh. Cụm từ không bao giờ ở đây hàm ý nói tới sự vô vọng của con người trên Trái Đất trong khát vọng nối kết với các hành tinh xa xôi trong thiên hà. Khoảng cách quá xa giữa Trái Đất và thiên hà NGK 4594 (ba mươi hai triệu năm ánh sáng để trao đổi thông tin) là nguyên nhân của sự vô vọng này.
(1) Thiên hà khổng lồ NGK 4565 trong chòm Tóc Vê-rô-nhi-ca nom rất đẹp.
(2) Ở xa bảy triệu pác-xếc, có thể nhìn thấy rìa của nó. (3) Thiên hà nghiêng về một phía như con chim đang lượn. (4) Nó trải rộng về mọi hướng, nom như cái đĩa mảnh và rõ ràng là cấu tạo bởi những nhánh hình xoáy ốc. (5) Còn ở trung tâm, cái nhân hình cầu rất bẹt cháy rực, nom như một khối sáng dày đặc. (6) Ta thấy rõ rệt là những đảo sao dẹt như thế nào: có thể so sánh thiên hà với cái bánh xe mỏng của bộ máy đồng hồ. (7) Rìa bánh xe nom không rõ, dường như hoà tan vào bóng tối không đáy của không gian.
Trả lời:
Các từ ngữ giữ vai trò là phương tiện liên kết giữa các câu trong đoạn văn: từ ngữ thay thế (nó trong câu (2) và (4) thay cho thiên hà khổng lồ NGK4565 trong chòm Tóc Vê-rô-nhi-ca trong câu (1) và thiên hà trong câu (3)); từ ngữ lặp lại (thiên hà xuất hiện ba lần; bánh xe xuất hiện hai lần). Các phương tiện liên kết này bảo đảm sự kết nối về hình thức giữa các câu trong đoạn văn. Sự liên kết đó cùng với sự mạch lạc về nội dung làm cho các câu tạo thành một chỉnh thể thống nhất, thể hiện chủ đề của đoạn văn: miêu tả thiên hà khổng lồ NGK 4565.