SBT Ngữ văn 7 Bài tập 8 trang 27, 28, 29 Kết nối tri thức
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
- Câu 1 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 2 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 3 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 4 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 5 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 6 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 7 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 8 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 9 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
Giải SBT Ngữ văn 7 Bài tập 8 trang 27, 28, 29 Kết nối tri thức
- Câu 1 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 2 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 3 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 4 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 5 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 6 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 7 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 8 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
- Câu 9 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1
Bài tập 8. trang 27, 28, 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Tôi muốn kể với các em về thầy giáo dạy vẽ của tôi. Thầy dạy chúng tôi cách
đây mười bảy năm, khi đó chúng tôi mới học lớp Năm mà thầy thì mái tóc đã bạc phơ...
[...] Chẳng hiểu vì thầy không có tài hay không gặp may, tuy thầy rất yêu hội
hoạ, dành hết sức lực và tiền bạc cho nó. Vợ con thầy đều đã mất từ lâu, thầy bảo: “Giờ đây, nguồn vui của thầy chỉ là công việc và các em học sinh”. Chúng tôi đều rất quý và thương thầy. Có lần, thầy đến lớp, vẻ nghiêm trang, xúc động, thầy nói với chúng tôi:
- Ở triển lãm mĩ thuật thành phố người ta có bày một cái tranh của tôi...
Thầy mỉm cười rụt rè, khẽ nói thêm: “Các em đến xem thử...”
Chiều hôm ấy, mấy đứa chúng tôi trong đó có Châu và Hiển - rủ nhau đến phòng triển lãm. Trong gian phòng chan hoà ánh sáng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc. So với những bức tranh to lớn trang trọng khác, bức tranh của thầy thật bé nhỏ, trong một chiếc khung cũ. Bởi tranh vẽ rất cẩn thận một lọ hoa cúc, mấy quả cam, những cánh hoa vàng rơi trên mặt bàn... Mọi người đi lướt qua, chẳng ai để ý tới bức tranh của thầy. Chúng tôi ngồi xuống cạnh bàn ghi cảm tưởng của người xem: chẳng thấy ý kiến nào khen ngợi hoặc nhắc đến bức tĩnh vật của thầy giáo chúng tôi. Lúc ấy, chúng tôi thấy thầy Bản cũng đến, thầy đi lại trong phòng triển lãm, nhìn người xem rồi lại nhìn về cái tranh của mình, bồn chồn, hồi hộp. Rồi sau cảm thấy đứng mãi ở đấy không tiện, thầy lại lóc cóc ra lấy xe đạp, đạp đi.
Càng thương thầy, chúng tôi càng giận những người xem vô cùng. Nảy ra một ý, chúng tôi bàn khẽ với nhau, rồi mở quyển sổ ghi cảm tưởng, chúng tôi thay nhau viết:
“Trong phòng triển lãm này, chúng tôi rất thích bức tranh của hoạ sĩ Nguyễn
Thừa Bản!”
“Bức tranh tĩnh vật của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản rất đẹp. Hoạ sĩ là một người
có tài năng và cần cù lao động. Kính chúc hoạ sĩ mạnh khoẻ...”
Rồi chúng tôi kí những cái tên giả dưới các ý kiến đó. Ngoài mấy đứa chúng
tôi, không ai biết việc này.
Vài hôm sau, thầy Bản đến lớp. Bối rối vì cảm động, thầy báo tin:
- Các em ạ... bức tranh ở triển lãm của tôi... cũng được một số người thích...
họ có ghi cảm tưởng... Ban tổ chức có đưa cho tôi đọc... tôi có ghi lại...
Thầy húng hắng ho rồi nói thêm vẻ ân hận:
- Bức tranh ấy tôi vẽ chưa được vừa ý... Nếu vẽ lại, tôi sẽ sửa chữa nhiều...
Thương thầy quá, chúng tôi suýt oà lên khóc. [... ]
Có lẽ đến phút cuối cuộc đời, thầy cũng không biết rằng: chính chúng tôi - những học trò nhỏ của thầy - đã viết vào quyển sổ cảm tưởng trong kì triển lãm ấy. Bây giờ thây Bản không còn nữa!
Tối ấy, ngồi với nhau, chúng tôi nhắc nhiều và nhớ nhiều đến thầy...
“Thưa thầy giáo dạy vẽ kính yêu!
Viết những dòng này, chúng em muốn xin thầy tha lỗi cho chúng em, và muốn một lần nữa được thưa với thầy rằng: chúng em biết ơn thầy, mãi mãi biết ơn thầy...”
(Xuân Quỳnh, Thầy giáo dạy vẽ của tôi, Trần Hoài Dương tuyển chọn,
Tuyển tập truyện ngắn hay Việt Nam dành cho thiếu nhi, tập 5, Sđd, tr. 180 - 182)
Trả lời:
Bức tranh của thầy Bản trong phòng triển lãm được miêu tả : Trong gian phòng chan hoà ánh sáng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc. So với những bức tranh to lớn trang trọng khác, bức tranh của thầy thật bé nhỏ, trong một chiếc khung cũ. Bởi tranh vẽ rất cẩn thận một lọ hoa cúc, mấy quả cam, những cánh hoa vàng rơi trên mặt bàn...
Trả lời:
- Học trò của thầy Bản thấy chẳng ai để ý tới bức tranh của thầy, chẳng thấy ý kiến nào khen ngợi hoặc nhắc đến bức tĩnh vật của thầy trong sổ ghi cảm tưởng.
- Các em cảm nhận được sự bồn chồn, hồi hộp của thầy trong phòng triển lãm và rất thương thầy.
Trả lời:
Qua những lời nói của thầy Bản với học trò về bức tranh của mình, có thể thấy: Thầy rất yêu hội hoạ, xúc động khi đọc những lời ghi cảm tưởng của người xem; thầy khiêm nhường, cần cù, nghiêm túc trong công việc.
Trả lời:
Nhân vật “tôi” và các bạn lại muốn “xin thầy tha lỗi” vì Có lẽ đến phút cuối cuộc đời, thầy cũng không biết rằng: chính chúng tôi - những học trò nhỏ của thầy - đã viết vào quyển số cảm tưởng trong kì triển lãm ấy. Bây giờ thầy Bản không còn nữa!
Trả lời:
Em bày tỏ thái độ đồng tình hoặc không đồng tình với hành động ghi cảm tưởng và kí những cái tên giả của nhân vật “tôi” và các bạn. Em cần lí giải cho thái độ, quan điểm của mình. Ví dụ: Em đồng tình vì đây là hành động hồn nhiên, trẻ con của các bạn nhỏ muốn khích lệ thầy do quá yêu quý và thương thầy. Có thể coi đây là “lời nói dối vô hại“ Tuy vậy, em cũng có thể không đồng tình vì xét cho cùng, việc viết cảm tưởng và kí tên giả là việc làm không được khuyến khích.
Câu 6 trang 29 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 1: Nêu một bài học em rút ra được từ câu chuyện.
Trả lời:
Bài học về tình cảm yêu quý, trân trọng, biết ơn thầy cô; sự khiêm nhường, nghiêm túc trong công việc;...
a.
- Trong gian phòng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc.
- Trong gian phòng chan hoà ánh sáng, bức tranh của thầy Bản treo ở một góc.
b.
- Bức tranh tĩnh vật của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản đẹp.
- Bức tranh tĩnh vật của hoạ sĩ Nguyễn Thừa Bản rất đẹp.
Trả lời:
a. trạng ngữ trong câu thứ hai miêu tả rõ hơn đặc điểm của gian phòng (chan hoà ánh sáng).
b. vị ngữ trong câu thứ hai nhấn mạnh hơn về đặc điểm (rất đẹp) Bức tranh tĩnh vật của họa sĩ Nguyễn Thừa Bản.
a. Chúng tôi đều rất quý và thương thầy.
b. Các em ạ... bức tranh ở triển lãm của tôi... cũng được một số người thích...
Trả lời:
a. rất
b. được
a. So với những bức tranh to lớn trang trọng khác, bức tranh của thầy thật bé nhỏ, trong một chiếc khung cũ.
b. Mọi người đi lướt qua, chẳng ai để ý tới bức tranh của thầy.
Trả lời:
a. Phó từ những (bức tranh): chỉ số lượng không xác định; một (chiếc khung cũ): chỉ số lượng cụ thể, xác định.
b. Phó từ mọi (người) : chỉ số lượng không xác định.