Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới trang 4 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới trang 4 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2
Câu 10 trang 4 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
CHUYỆN NGƯỜI NGHĨA PHỤ Ở KHOÁI CHÂU
(Trích Truyền kì mạn lục)
Từ Đạt, người ở Khoái Châu, lên làm quan tại thành Đông Quan, thuê nhà ở cạnh cầu Đồng Xuân, láng giềng với nhà quan Thiêm thư là Phùng Lập Ngôn. Phùng giàu mà Từ nghèo, Phùng xa hoa mà Từ tiết kiệm, Phùng chuộng dễ dãi mà Từ thì giữ lễ. Lề thói hai nhà đại khái không giống nhau. Song cũng lấy nghĩa mà chơi bời đi lại với nhau rất thân, coi nhau như anh em vậy.
Phùng có người con trai là Trọng Quỳ, Từ có người con gái là Nhị Khanh, gái sắc trai tài, tuổi cũng suýt soát. Hai người thường gặp nhau trong những bữa tiệc, mền vì tài, yêu vì sắc, cũng có ý muốn kết duyên Châu Trần. Cha mẹ đôi bên cũng vui lòng ưng cho, nhân chọn ngày mối lái, định kì cưới hỏi.
Nhị Khanh tuy hãy còn nhỏ, nhưng sau khi về nhà họ Phùng, khéo biết cư xử với họ hàng rất hoà mục và thờ chồng rất cung thuận; người ta đều khen là người nội trợ hiền.
Trọng Quỳ lớn lên, dần sinh ra chơi bời lêu lổng; Nhị Khanh thường vẫn phải can ngăn. Chàng tuy không nghe nhưng cũng rất kính trọng. Năm chàng hai mươi tuổi, nhờ phụ ấm được bổ làm một chức ở phủ Kiến Hưng. Gặp khi vùng Nghệ An có giặc, triều đình xuống chiếu kén một viên quan giỏi bổ vào cai trị. Đình thần ghét Lập Ngôn tính hay nói thẳng, ý muốn làm hại, bèn hùa nhau tiến cử. Khi sắp đi phó nhậm, Phùng Lập Ngôn bảo Nhị Khanh rằng:
– Đường sá xa xăm, ta không muốn đem đàn bà con gái đi theo, vậy con nên tạm ở quê nhà. Đợi khi sông bằng nước phẳng, vợ chồng con cái sẽ lại cùng nhau tương kiến.
Trọng Quỳ thấy Nhị Khanh không đi, có ý quyến luyến không dứt. Nhị Khanh ngăn, bảo rằng:
– Nay nghiêm đường vì tính nói thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng phiên, bên trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa. Chả lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam chướng nghìn trùng, hiểm nghèo giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo mán, sớm hôm săn sóc, không kẻ đỡ thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo. Thiếp dám đâu đem mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng bận lòng đến chốn hương khuê.
Trọng Quỳ không đừng được, mới bày một bữa tiệc từ biệt, rồi cùng Lập Ngôn đem người nhà đi vào phương nam.
Không ngờ lòng giời khó hiểu, việc người khôn lường, cha mẹ Nhị Khanh nối nhau tạ thế. Nàng đưa tang về Khoái Châu, chôn cất cúng tế xong rồi, đến cùng ở chung với bà cô Lưu thị.
(Lược một đoạn: Bà cô Lưu thị muốn ép Nhị Khanh lấy người quan tướng quân họ Bạch giàu có nhưng Nhị Khanh một lòng phản đối, nàng sai người bõ già lặn lội đi tìm chồng ở Nghệ An. Khi người bõ già đến nơi thì thấy Phùng Lập Ngôn đã mất, Trọng Quỳ vì ăn chơi nên phá nát gia sản, hiện đang mắc kẹt, người bõ già phải giúp đưa về nhà. Về đến nhà, vợ chồng trông nhau mà khóc, Trọng Quỳ bèn làm bài thơ thể hiện tình cảm với vợ. Hai vợ chồng vì xa cách lâu ngày mới được gặp lại nên tình cảm nồng nàn thắm thiết.)
Song, Trọng Quỳ vì quen thân phóng lãng, thuộc tính chơi bời, về nhà ít lâu rồi nết cũ lại đâu đóng đấy, hằng ngày cùng người lái buôn là Đỗ Tam bê tha lêu lổng. Trọng Quỳ thì thích Đỗ có tiền nhiều. Đỗ thì ham Trọng Quỳ có vợ đẹp. Những khi uống rượu với nhau rồi đánh bạc, Đỗ thường lấy lợi nhử Trọng Quỳ. Trọng Quỳ đánh lần nào cũng được, thấy kiếm tiền dễ như thò tay vào túi mình lấy đồ vật vậy. Nhị Khanh vẫn răn bảo rằng:
– Những người lái buôn phần nhiều là giảo quyệt, đừng nên chơi thân với họ, ban đầu tuy họ thả cho mình được, nhưng rồi họ sẽ vét hết của mình cho mà xem.
Trọng Quỳ không nghe. Một hôm, Trọng Quỳ cùng các bè bạn họp nhau đánh tứ sắc. Đỗ bỏ ra trăm vạn đồng tiền để đánh và đòi Trọng Quỳ đánh bằng Nhị Khanh. Trọng Quỳ quen mui vẫn được luôn, chẳng suy nghĩ gì, liền bằng lòng cách ấy. Giấy giao kèo viết xong rồi vừa uống rượu vừa gieo quân. Trọng Quỳ gieo ba lần đều thua cả ba, sắc mặt tái mét; cử toạ cũng đều ngơ ngác buồn rầu hộ.
Trọng Quỳ phải cho gọi Nhị Khanh đến, bảo rõ thực tình, đưa tờ giao kèo cho xem và yên ủi rằng:
– Tôi vì nỗi nghèo nó bó buộc, để luỵ đến nàng. Việc đã đến thế này, hối lại cũng không kịp nữa. Thôi thì bi hoan tán tụ cũng là việc thường của người ta. Nàng nên tạm về với người mới, khéo chiều chuộng hắn, rồi bất nhật tôi sẽ đem tiền đến chuộc.
Nàng liệu cơ không thể thoát khỏi, giả vờ nói tử tế rằng:
– Bỏ nghèo theo giàu, thiếp lẽ đâu từ chối. Số giời xếp đặt, há chẳng là tiền định hay sao! Nếu chồng mới không nỡ rẽ bỏ, còn đoái thu đến cái dung nhan tàn tạ này, thiếp xin sửa túi nâng khăn, hết lòng hầu hạ như đã đối với chàng xưa nay. Nhưng xin cho uống một chén rượu, mượn làm một chén tiễn biệt và cho về từ giã các con một chút.
Đỗ cả mừng, rót đầy một chén xà cừ rượu đưa mời nàng uống. Uống xong, nàng về nhà ôm lấy hai con, vỗ vào lưng mà bảo rằng:
– Cha con bạc tình, mẹ đau buồn lắm. Biệt li là việc thường thiên hạ, một cái chết với mẹ có khó khăn gì. Nhưng mẹ chỉ nghĩ thương các con mà thôi.
Nói xong, lấy đoạn dây tơ thắt cổ mà chết.
Đỗ thấy mãi nàng không đến, lấy làm lạ, sai người đến giục, té ra nàng đã chết rồi. Trọng Quỳ hối hận vô cùng, sắm đồ liệm táng tử tế rồi làm một bài văn tế. [...]
Trọng Quỳ đã goá vợ, rất ăn năn tội lỗi của mình. Song sinh kế ngày một cùng quẫn, ăn bữa sớm lo bữa tối, phải đi vay quanh của mọi người làng xóm. Nhân nghĩ có một người bạn cũ, hiện làm quan ở Quy Hoá, bèn tìm đến để mong nhờ vả. Dọc đường buồn ngủ, chàng nằm ghé xuống ngủ ở gốc cây bàng, bỗng nghe trên không có tiếng gọi rằng:
– Có phải Phùng lang đấy không? Nếu còn nghĩ đến tình xưa thì ngày ấy tháng ấy xin đến chờ thiếp ở cửa đền Trưng Vương. Ân tình thiết tha, đừng coi là âm dương cách trở.
Trọng Quỳ lấy làm lạ, tiếng giống như tiếng Nhị Khanh, mở mắt ra nhìn thì chỉ thấy trên trời một đám mây đen bay về tây bắc. Trọng Quỳ tuy rất lấy làm ngờ nhưng cũng muốn thử xem sao, bèn đúng hẹn đến trước đền ấy. Song đến nơi chỉ thấy bóng tà rọi cửa, rêu biếc đầy sân, năm ba tiếng quạ kêu ở trên cành cây xao xác. Trọng Quỳ buồn rầu toan về thì Mặt Trời đã lặn, bèn ngả mình nằm ở tấm ván nát trên một cái cầu. Khoảng cuối canh ba, bỗng nghe thấy tiếng khóc nức nở từ xa rồi gần. Khi thấy tiếng khóc chỉ còn cách mình độ nửa trượng, nhìn kĩ thì người khóc chính là Nhị Khanh. Nàng bảo với Trọng Quỳ rằng:
– Đa tạ ơn chàng, từ xa lặn lội tới đây, biết lấy gì để tặng chàng được! Trọng Quỳ chỉ tự nhận tội lỗi của mình; nhân hỏi đầu đuôi, Nhị Khanh nói:
– Thiếp sau khi mất đi, Thượng đế thương là oan uổng bèn ra ân chỉ. Hiện thiếp được lệ thuộc vào toà đền này, coi giữ về những sớ văn tấu đối, không lúc nào nhàn rỗi để thăm nhau được. Bữa nọ nhân đi làm mưa, chợt trông thấy chàng nên mới gọi; nếu không thì nghìn thu dằng dặc, chẳng biết đến bao giờ được gặp gỡ nhau.
Trọng Quỳ nói:
– Sao nàng đến chậm thế!
Nhị Khanh nói:
Vừa rồi thiếp nhân theo xe mây, lên có việc ở nơi Đế sở. Vì cớ có chàng nên thiếp đã phải bẩm xin về trước đấy, thành ra cũng sai hẹn với chàng một chút.
Bèn dắt tay nhau đi nằm, cùng nhau chuyện trò thủ thỉ. Khi nói đến việc hiện thời, Nhị Khanh chau mày:
– Thiếp thường theo chầu tả hữu Đức Bà ở đây, được trộm nghe chư tiên nói chuyện với nhau, bảo Hồ triều sẽ hết vào năm Bính Tuất, binh cách nổi lớn, số người bị giết chóc đến chừng hơn hai mươi vạn, ấy là chưa kể số bị bắt cướp đi. Nếu không phải người giống cây đức đã sâu thì chỉ e ngọc đá đều bị cháy cả. Bấy giờ có một vị chân nhân họ Lê, từ miền tây nam xuất hiện; chàng nên khuyên hai con bên chí đi theo vị ấy, thiếp dù chết cũng không nát.
Trời gần sáng, Nhị Khanh vội dậy để cáo biệt, vừa đi vừa ngoảnh đầu nhìn lại rồi thoắt chốc thì biến đi mất.
Trọng Quỳ bèn không lấy ai nữa, chăm chỉ nuôi hai con cho nên người. Đến khi vua Lê Thái Tổ tuốt gươm đứng dậy ở Lam Sơn, hai người con trai đều đi theo, trải làm đến chức Nhập thị nội. Đến nay ở Khoái Châu hiện còn con cháu.
(Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch,
NXB Văn học, Hà Nội, 1999)
a) Nhân vật chính trong văn bản trên là ai? Nhân vật ấy được khắc hoạ qua những chi tiết tiêu biểu nào?
b) Xác định và nêu tác dụng của những chi tiết kì ảo trong truyện.
c) Vấn đề xã hội mà truyện đặt ra là gì? Vấn đề đó có còn trong xã hội Việt Nam ngày nay không?
d) Văn bản trên chuyển tải thông điệp gì?
e) Hãy so sánh nhân vật Nhị Khanh và nhân vật Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương).
Trả lời:
a) Nhân vật chính trong văn bản là Nhị Khanh. Nhân vật ấy được khắc hoạ qua những chi tiết tiêu biểu:
– Tuy còn nhỏ nhưng khéo léo, biết cư xử với họ hàng rất hoà mục, thờ chồng cung thuận, là người nội trợ hiền.
– Khuyên can chồng gạt bỏ tình riêng đi theo cha vào Nghệ An để thực hiện chữ hiếu. Một lòng chung thuỷ thờ chồng, khước từ mọi cám dỗ tiền bạc của tướng quân họ Bạch, chống lại lời thúc giục ép buộc của bà cô. Chủ động nhờ người bõ già đi tìm và đưa chồng về khi chồng mắc kẹt ở Nghệ An. Hết lòng khuyên can khi thấy chồng giao du với bạn xấu, sa ngã cờ bạc.
– Khi bị chồng gán nợ bạc cho Đỗ Tam, nàng giả vờ ưng thuận, rồi về dặn dò con, thắt cổ tự tử.
Sau khi chết vẫn ân tình, nhắc nhở chồng, khuyên chồng tu chí, hướng hai con đến nghĩa khí, tương lai tươi sáng.
b) Những chi tiết kì ảo trong truyện:
– Chi tiết về cuộc gặp gỡ của Trọng Quỳ với Nhị Khanh: “Trọng Quỳ lấy làm lạ, tiếng giống như tiếng Nhị Khanh, mở mắt ra nhìn thì chỉ thấy trên trời một đám mây đen bay về tây bắc. Trọng Quỳ tuy rất lấy làm ngờ nhưng cũng muốn thử xem sao, bèn đúng hẹn đến trước đền ấy. Song đến nơi chỉ thấy bóng tà rọi cửa, rêu biếc đầy sân, năm ba tiếng quạ kêu ở trên cành cây xao xác. Trọng Quỳ buồn rầu toan về thì Mặt Trời đã lặn, bèn ngả mình nằm ở tấm ván nát trên một cái cầu. Khoảng cuối canh ba, bỗng nghe thấy tiếng khóc nức nở từ xa rồi gần. Khi thấy tiếng khóc chỉ còn cách mình độ nửa trượng, nhìn kĩ thì người khóc chính là Nhị Khanh.”.
– Chi tiết Nhị Khanh khuyên Trọng Quỳ: “Vừa rồi thiếp nhân theo xe mây, lên có việc ở nơi Đế sở. Vì cớ có chàng nên thiếp đã phải bẩm xin về trước đấy, thành ra cũng sai hẹn với chàng một chút.”, “Thiếp thường theo chầu tả hữu Đức Bà ở đây, được trộm nghe chư tiên nói chuyện với nhau, bảo Hồ triều sẽ hết vào năm Bính Tuất, binh cách nổi lớn, số người bị giết chóc đến chừng hơn hai mươi vạn, ấy là chưa kể số bị bắt cướp đi.”.
= > Tác dụng của những chi tiết kì ảo trong truyện: vừa thúc đẩy cốt truyện vận động với những diễn biến mới vừa tạo tình huống để nhân vật bộc lộ những nét mới trong tính cách (Trọng Quỳ đã biết ăn năn hối lỗi hơn, đã tu chỉnh hơn để định hướng cho hai con đi theo con đường chính nghĩa); tạo ra kết thúc có hậu, thể hiện tinh thần nhân đạo của tác giả.
c) Qua câu chuyện về nàng Nhị Khanh, truyện đặt ra vấn đề về số phận bất hạnh của người phụ nữ trong chế độ xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Người phụ nữ phải gánh chịu những thiệt thòi, vất vả khi gia đình xảy ra biến cố, khi chồng sa ngã. Vấn đề đó vẫn còn nhưng đã giảm thiểu đáng kể trong xã hội Việt Nam ngày nay.
d) Thông điệp: Phải xây dựng một xã hội bình đẳng giữa nam và nữ, cần bảo vệ người phụ nữ, nhất là những người phụ nữ có phẩm hạnh tốt đẹp.
e) Nhân vật Nhị Khanh và Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương) đều là những người phụ nữ bất hạnh, kém may mắn trong xã hội phong kiến. Họ đều phải tìm đến cái chết để bảo toàn nhân phẩm. Tuy đều được các lực lượng siêu nhiên (thần tiên) cứu giúp và có cơ hội gặp lại chồng ở trần thế nhưng họ không thể có lại hạnh phúc gia đình. Khác với Vũ Nương, Nhị Khanh có cơ hội gặp gỡ và tác động đến chồng nhiều hơn.
Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Chuyện người con gái Nam Xương hay khác:
- Câu 1 trang 3 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Phương án nào nêu không đúng đặc điểm của thể loại truyện truyền kì?
- Câu 2 trang 3 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Truyền kì mạn lục nghĩa là gì?
- Câu 3 trang 3 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Ở phần (1), nhân vật Vũ Nương được tác giả miêu tả thế nào qua lời của người kể chuyện và lời đối thoại của nhân vật này với chồng? Qua đó, có thể thấy đặc điểm tính cách, phẩm chất nào ở Vũ Nương?
- Câu 4 trang 3 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Trong phần (2), tác giả đã tạo ra tình huống nào để khắc hoạ bi kịch của nhân vật Vũ Nương?
- Câu 5 trang 3 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: (Câu hỏi 3, SGK) Chỉ ra biểu hiện và phân tích tác dụng của yếu tố kì ảo trong văn bản Chuyện người con gái Nam Xương.
- Câu 6 trang 3 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: (Câu hỏi 4, SGK) Phân tích tác dụng của sự kết hợp giữa các chi tiết kì ảo và chi tiết đời thường ở một đoạn văn cụ thể trong văn bản.
- Câu 7 trang 4 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: (Câu hỏi 5, SGK) Chủ đề của văn bản Chuyện người con gái Nam Xương là gì?
- Câu 8 trang 4 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: (Câu hỏi 6, SGK) Hãy nêu suy nghĩ của em về một vấn đề có ý nghĩa nhân sinh mà truyện đặt ra và liên hệ với cuộc sống ngày nay.
- Câu 9 trang 4 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Văn bản Chuyện người con gái Nam Xương cho thấy những đặc điểm nào của thể loại truyện truyền kì?