SBT Ngữ văn 9 Cánh diều Chuyện người con gái Nam Xương
Haylamdo biên soạn và sưu tầm lời giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Chuyện người con gái Nam Xương trang 3, 4 sách Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh lớp 9 dễ dàng làm bài tập trong SBT Văn 9.
- Câu 1 trang 3 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2
- Câu 2 trang 3 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2
- Câu 3 trang 3 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2
- Câu 4 trang 3 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2
- Câu 5 trang 3 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2
- Câu 6 trang 3 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2
- Câu 7 trang 4 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2
- Câu 8 trang 4 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2
- Câu 9 trang 4 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2
- Câu 10 trang 4 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2
Giải SBT Ngữ văn 9 Cánh diều Chuyện người con gái Nam Xương
A. Cốt truyện được xây dựng dựa trên những câu chuyện trong dân gian
B. Nhân vật chính thường là các thám tử hoặc điều tra viên
C. Trong truyện, có nhiều chi tiết kì ảo, thậm chí hoang đường
D. Con người và thánh thần, ma quỷ có sự hoà trộn, kết nối
Trả lời:
Đáp án B. Nhân vật chính thường là các thám tử hoặc điều tra viên.
Câu 2 trang 3 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Truyền kì mạn lục nghĩa là gì?
A. Ghi chép lại những truyền thuyết trong dân gian
B. Ghi chép lại những chuyện kì thú trong thế giới khoa học
C. Ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ được lưu truyền
D. Ghi chép những chuyện có ý nghĩa về truyền thống của dân tộc
Trả lời:
Đáp án C. Ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ được lưu truyền.
Trả lời:
Ở phần (1), nhân vật Vũ Nương được tác giả miêu tả:
- Qua lời của người kể chuyện: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương tính đã thuỷ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp.”; do chồng đa nghi nên “Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà.”; khi mẹ chồng ốm, “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn.”; khi bà cụ mất, “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”.
- Qua lời đối thoại của nhân vật này với chồng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.”, “Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”,... Ý của Vũ Nương là không tham vinh hoa phú quý, điều quan trọng nhất là chồng bình an và sớm trở về.
Qua đây, có thể thấy đặc điểm tính cách, phẩm chất ở Vũ Nương: thuỳ mị, nết na, yêu chồng, hiếu thuận, không tham vinh hoa phú quý.
Trả lời:
Trong phần (2), tác giả đã tạo ra tình huống nghi ngờ để khắc hoạ bi kịch của nhân vật Vũ Nương: Trương Sinh nghi ngờ lòng chung thuỷ của Vũ Nương qua lời nói của đứa con: “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngôi cũng ngôi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.” . Kì thực, đó là cái bóng của Vũ Nương ở trên vách: “ngày thường, ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản”. Sự nghi ngờ này đã dẫn đến kết đớn cho Vũ Nương; “gieo mình xuống sông mà chết”.
Trả lời:
– Các chi tiết kì ảo thể hiện tập trung ở phần (3), trước hết là không gian nghệ thuật – cung điện, đền đài sang trọng ở dưới nước của rùa thần, là nơi ở của vợ vua biển Nam Hải, nơi sinh sống của các nàng tiên. Không gian kì lạ này gắn liền với một chi tiết kì ảo khác, đó là: “Tôi (Vũ Nương) ngày trước không may bị người vu oan, phải gieo mình xuống sông tự tử. Các nàng tiên trong cung nước thương tôi vô tội, rẽ một đường nước cho tôi thoát chết”,... Học sinh (HS) có thể nêu thêm các chi tiết khác.
– Yếu tố kì ảo có tác dụng mở ra những diễn biến tiếp theo cho câu chuyện, đẩy cốt truyện vận động, đồng thời giúp tác giả tiếp tục khắc hoạ số phận, phẩm chất của nhân vật Vũ Nương (số phận bất hạnh vì Vũ Nương vẫn luôn bị ám ảnh, dằn vặt bởi nỗi oan chưa được giải toả; là người có tình nghĩa, luôn hướng về gia đình, quê nhà và luôn khát khao được giải oan để giữ khí tiết thanh sạch) và thể hiện tư tưởng nhân đạo (cảm thông với những người phụ nữ có số phận kém may mắn; yêu mến, trân trọng những con người có tâm hồn và phẩm chất cao đẹp).
Trả lời:
- Đoạn văn:
“Lúc đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với họ Trương. Ban đầu Trương không tin. Nhưng khi nhận được chiếc hoa vàng, chàng mới sợ hãi mà nói:
– Đây quả là vật dụng mà vợ tôi mang lúc ra đi.
Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện.
Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào:
– Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa.
Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.”.
Ở đoạn trên, các chi tiết như Phan kể chuyện với Trương ở nhà, Trương lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang, Trương gọi vợ,... là các chi tiết đời thường, trần tục, hoàn toàn có thể có thật. Còn các chi tiết như Trương nhận lại chiếc hoa vàng, Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất,.... là chi tiết không có thật. Ngay trong một chi tiết nhỏ cũng có sự kết hợp các yếu tố đời thường và kì ảo. Chẳng hạn: việc Trương nhận lại chiếc hoa vàng từ Phan. Chiếc hoa vàng là một vật dụng có thật, một đồ vật của Vũ Nương. Nhưng việc Phan nhận chiếc hoa vàng từ Vũ Nương ở chỗ của Linh Phi để rồi về nhà trao lại cho Trương thì lại là kì ảo. Nhìn chung, sự kết hợp giữa các chi tiết trên giúp câu chuyện trở nên hấp dẫn, vừa hư vừa thực, vừa gắn với những vấn đề của cuộc sống hằng ngày, gần gũi với mọi người vừa thể hiện trí tưởng tượng phong phú và ước mơ của tác giả về những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Trả lời:
Qua câu chuyện về cuộc đời của nhân vật Vũ Nương, truyện đặt ra vấn đề về số phận oan trái của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, thể hiện sự thương xót đối với những người phụ nữ bất hạnh, kém may mắn, đồng thời bộc lộ cái nhìn nhân hậu, mong ước những điều tốt đẹp sẽ đến với họ. Truyện cũng ngợi ca vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: nết na, hiếu thuận,...
Trả lời:
Tham khảo:
Văn bản "Chuyện người con gái Nam Xương" đã để lại cho em nhiều ấn tượng và bài học nhân sinh sâu sắc. Thật vậy, bài học đầu tiên mà em thấy được đó là số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Họ là những người phụ nữ có số phận bất hạnh, vô định không bến bờ và phải sống phụ thuộc vào người chồng của mình. Đồng thời, họ cũng không có tiếng nói, bị đè nặng bởi các định kiến phong kiến đến nỗi chẳng thể tự giải oan cho mình. Cuối cùng, họ vẫn khó có thể tự giành cho mình được hạnh phúc, không có quyền được hưởng hạnh phúc ở nhân gian. Bài học thứ hai mà em nhận ra được đó là vẻ đẹp của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Những người phụ nữ như Vũ Nương không chỉ có tấm lòng thơm thảo dành cho gia đình nhà chồng, mà còn có đức hy sinh, tấm lòng chung thủy, trinh bạch sâu sắc. Bài học cuối cùng mà em rút ra được từ văn bản đó là hôn nhân và hạnh phúc gia đình bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố. Chỉ khi sự vun vén đến từ cả người chồng và người vợ thì mọi sự hiểu nhầm đều có thể hóa giải. Chiến tranh chia cắt cũng gây chia cắt và là nguyên nhân gián tiếp phá hoại hôn nhân con người. Đó là những bài học nhân sinh mà em rút ra được từ văn bản.
Trả lời:
Văn bản Chuyện người con gái Nam Xương cho thấy những đặc điểm sau của thể loại truyện truyền kì:
– Sử dụng nhiều yếu tố kì ảo nhưng nội dung của truyện lại là những vấn đề của đời sống nhân sinh.
– Không gian, sự việc, con người,... có sự kết hợp giữa những chi tiết có thật với không có thật, vừa ở thế giới siêu nhiên vừa gắn với những số phận đời thường.
– Nhân vật chính là người bình dân, gắn với những vấn đề của cuộc sống đời thường (hạnh phúc gia đình).
Câu 10 trang 4 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
CHUYỆN NGƯỜI NGHĨA PHỤ Ở KHOÁI CHÂU
(Trích Truyền kì mạn lục)
Từ Đạt, người ở Khoái Châu, lên làm quan tại thành Đông Quan, thuê nhà ở cạnh cầu Đồng Xuân, láng giềng với nhà quan Thiêm thư là Phùng Lập Ngôn. Phùng giàu mà Từ nghèo, Phùng xa hoa mà Từ tiết kiệm, Phùng chuộng dễ dãi mà Từ thì giữ lễ. Lề thói hai nhà đại khái không giống nhau. Song cũng lấy nghĩa mà chơi bời đi lại với nhau rất thân, coi nhau như anh em vậy.
Phùng có người con trai là Trọng Quỳ, Từ có người con gái là Nhị Khanh, gái sắc trai tài, tuổi cũng suýt soát. Hai người thường gặp nhau trong những bữa tiệc, mền vì tài, yêu vì sắc, cũng có ý muốn kết duyên Châu Trần. Cha mẹ đôi bên cũng vui lòng ưng cho, nhân chọn ngày mối lái, định kì cưới hỏi.
Nhị Khanh tuy hãy còn nhỏ, nhưng sau khi về nhà họ Phùng, khéo biết cư xử với họ hàng rất hoà mục và thờ chồng rất cung thuận; người ta đều khen là người nội trợ hiền.
Trọng Quỳ lớn lên, dần sinh ra chơi bời lêu lổng; Nhị Khanh thường vẫn phải can ngăn. Chàng tuy không nghe nhưng cũng rất kính trọng. Năm chàng hai mươi tuổi, nhờ phụ ấm được bổ làm một chức ở phủ Kiến Hưng. Gặp khi vùng Nghệ An có giặc, triều đình xuống chiếu kén một viên quan giỏi bổ vào cai trị. Đình thần ghét Lập Ngôn tính hay nói thẳng, ý muốn làm hại, bèn hùa nhau tiến cử. Khi sắp đi phó nhậm, Phùng Lập Ngôn bảo Nhị Khanh rằng:
– Đường sá xa xăm, ta không muốn đem đàn bà con gái đi theo, vậy con nên tạm ở quê nhà. Đợi khi sông bằng nước phẳng, vợ chồng con cái sẽ lại cùng nhau tương kiến.
Trọng Quỳ thấy Nhị Khanh không đi, có ý quyến luyến không dứt. Nhị Khanh ngăn, bảo rằng:
– Nay nghiêm đường vì tính nói thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng phiên, bên trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa. Chả lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam chướng nghìn trùng, hiểm nghèo giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo mán, sớm hôm săn sóc, không kẻ đỡ thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo. Thiếp dám đâu đem mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng bận lòng đến chốn hương khuê.
Trọng Quỳ không đừng được, mới bày một bữa tiệc từ biệt, rồi cùng Lập Ngôn đem người nhà đi vào phương nam.
Không ngờ lòng giời khó hiểu, việc người khôn lường, cha mẹ Nhị Khanh nối nhau tạ thế. Nàng đưa tang về Khoái Châu, chôn cất cúng tế xong rồi, đến cùng ở chung với bà cô Lưu thị.
(Lược một đoạn: Bà cô Lưu thị muốn ép Nhị Khanh lấy người quan tướng quân họ Bạch giàu có nhưng Nhị Khanh một lòng phản đối, nàng sai người bõ già lặn lội đi tìm chồng ở Nghệ An. Khi người bõ già đến nơi thì thấy Phùng Lập Ngôn đã mất, Trọng Quỳ vì ăn chơi nên phá nát gia sản, hiện đang mắc kẹt, người bõ già phải giúp đưa về nhà. Về đến nhà, vợ chồng trông nhau mà khóc, Trọng Quỳ bèn làm bài thơ thể hiện tình cảm với vợ. Hai vợ chồng vì xa cách lâu ngày mới được gặp lại nên tình cảm nồng nàn thắm thiết.)
Song, Trọng Quỳ vì quen thân phóng lãng, thuộc tính chơi bời, về nhà ít lâu rồi nết cũ lại đâu đóng đấy, hằng ngày cùng người lái buôn là Đỗ Tam bê tha lêu lổng. Trọng Quỳ thì thích Đỗ có tiền nhiều. Đỗ thì ham Trọng Quỳ có vợ đẹp. Những khi uống rượu với nhau rồi đánh bạc, Đỗ thường lấy lợi nhử Trọng Quỳ. Trọng Quỳ đánh lần nào cũng được, thấy kiếm tiền dễ như thò tay vào túi mình lấy đồ vật vậy. Nhị Khanh vẫn răn bảo rằng:
– Những người lái buôn phần nhiều là giảo quyệt, đừng nên chơi thân với họ, ban đầu tuy họ thả cho mình được, nhưng rồi họ sẽ vét hết của mình cho mà xem.
Trọng Quỳ không nghe. Một hôm, Trọng Quỳ cùng các bè bạn họp nhau đánh tứ sắc. Đỗ bỏ ra trăm vạn đồng tiền để đánh và đòi Trọng Quỳ đánh bằng Nhị Khanh. Trọng Quỳ quen mui vẫn được luôn, chẳng suy nghĩ gì, liền bằng lòng cách ấy. Giấy giao kèo viết xong rồi vừa uống rượu vừa gieo quân. Trọng Quỳ gieo ba lần đều thua cả ba, sắc mặt tái mét; cử toạ cũng đều ngơ ngác buồn rầu hộ.
Trọng Quỳ phải cho gọi Nhị Khanh đến, bảo rõ thực tình, đưa tờ giao kèo cho xem và yên ủi rằng:
– Tôi vì nỗi nghèo nó bó buộc, để luỵ đến nàng. Việc đã đến thế này, hối lại cũng không kịp nữa. Thôi thì bi hoan tán tụ cũng là việc thường của người ta. Nàng nên tạm về với người mới, khéo chiều chuộng hắn, rồi bất nhật tôi sẽ đem tiền đến chuộc.
Nàng liệu cơ không thể thoát khỏi, giả vờ nói tử tế rằng:
– Bỏ nghèo theo giàu, thiếp lẽ đâu từ chối. Số giời xếp đặt, há chẳng là tiền định hay sao! Nếu chồng mới không nỡ rẽ bỏ, còn đoái thu đến cái dung nhan tàn tạ này, thiếp xin sửa túi nâng khăn, hết lòng hầu hạ như đã đối với chàng xưa nay. Nhưng xin cho uống một chén rượu, mượn làm một chén tiễn biệt và cho về từ giã các con một chút.
Đỗ cả mừng, rót đầy một chén xà cừ rượu đưa mời nàng uống. Uống xong, nàng về nhà ôm lấy hai con, vỗ vào lưng mà bảo rằng:
– Cha con bạc tình, mẹ đau buồn lắm. Biệt li là việc thường thiên hạ, một cái chết với mẹ có khó khăn gì. Nhưng mẹ chỉ nghĩ thương các con mà thôi.
Nói xong, lấy đoạn dây tơ thắt cổ mà chết.
Đỗ thấy mãi nàng không đến, lấy làm lạ, sai người đến giục, té ra nàng đã chết rồi. Trọng Quỳ hối hận vô cùng, sắm đồ liệm táng tử tế rồi làm một bài văn tế. [...]
Trọng Quỳ đã goá vợ, rất ăn năn tội lỗi của mình. Song sinh kế ngày một cùng quẫn, ăn bữa sớm lo bữa tối, phải đi vay quanh của mọi người làng xóm. Nhân nghĩ có một người bạn cũ, hiện làm quan ở Quy Hoá, bèn tìm đến để mong nhờ vả. Dọc đường buồn ngủ, chàng nằm ghé xuống ngủ ở gốc cây bàng, bỗng nghe trên không có tiếng gọi rằng:
– Có phải Phùng lang đấy không? Nếu còn nghĩ đến tình xưa thì ngày ấy tháng ấy xin đến chờ thiếp ở cửa đền Trưng Vương. Ân tình thiết tha, đừng coi là âm dương cách trở.
Trọng Quỳ lấy làm lạ, tiếng giống như tiếng Nhị Khanh, mở mắt ra nhìn thì chỉ thấy trên trời một đám mây đen bay về tây bắc. Trọng Quỳ tuy rất lấy làm ngờ nhưng cũng muốn thử xem sao, bèn đúng hẹn đến trước đền ấy. Song đến nơi chỉ thấy bóng tà rọi cửa, rêu biếc đầy sân, năm ba tiếng quạ kêu ở trên cành cây xao xác. Trọng Quỳ buồn rầu toan về thì Mặt Trời đã lặn, bèn ngả mình nằm ở tấm ván nát trên một cái cầu. Khoảng cuối canh ba, bỗng nghe thấy tiếng khóc nức nở từ xa rồi gần. Khi thấy tiếng khóc chỉ còn cách mình độ nửa trượng, nhìn kĩ thì người khóc chính là Nhị Khanh. Nàng bảo với Trọng Quỳ rằng:
– Đa tạ ơn chàng, từ xa lặn lội tới đây, biết lấy gì để tặng chàng được! Trọng Quỳ chỉ tự nhận tội lỗi của mình; nhân hỏi đầu đuôi, Nhị Khanh nói:
– Thiếp sau khi mất đi, Thượng đế thương là oan uổng bèn ra ân chỉ. Hiện thiếp được lệ thuộc vào toà đền này, coi giữ về những sớ văn tấu đối, không lúc nào nhàn rỗi để thăm nhau được. Bữa nọ nhân đi làm mưa, chợt trông thấy chàng nên mới gọi; nếu không thì nghìn thu dằng dặc, chẳng biết đến bao giờ được gặp gỡ nhau.
Trọng Quỳ nói:
– Sao nàng đến chậm thế!
Nhị Khanh nói:
Vừa rồi thiếp nhân theo xe mây, lên có việc ở nơi Đế sở. Vì cớ có chàng nên thiếp đã phải bẩm xin về trước đấy, thành ra cũng sai hẹn với chàng một chút.
Bèn dắt tay nhau đi nằm, cùng nhau chuyện trò thủ thỉ. Khi nói đến việc hiện thời, Nhị Khanh chau mày:
– Thiếp thường theo chầu tả hữu Đức Bà ở đây, được trộm nghe chư tiên nói chuyện với nhau, bảo Hồ triều sẽ hết vào năm Bính Tuất, binh cách nổi lớn, số người bị giết chóc đến chừng hơn hai mươi vạn, ấy là chưa kể số bị bắt cướp đi. Nếu không phải người giống cây đức đã sâu thì chỉ e ngọc đá đều bị cháy cả. Bấy giờ có một vị chân nhân họ Lê, từ miền tây nam xuất hiện; chàng nên khuyên hai con bên chí đi theo vị ấy, thiếp dù chết cũng không nát.
Trời gần sáng, Nhị Khanh vội dậy để cáo biệt, vừa đi vừa ngoảnh đầu nhìn lại rồi thoắt chốc thì biến đi mất.
Trọng Quỳ bèn không lấy ai nữa, chăm chỉ nuôi hai con cho nên người. Đến khi vua Lê Thái Tổ tuốt gươm đứng dậy ở Lam Sơn, hai người con trai đều đi theo, trải làm đến chức Nhập thị nội. Đến nay ở Khoái Châu hiện còn con cháu.
(Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch,
NXB Văn học, Hà Nội, 1999)
a) Nhân vật chính trong văn bản trên là ai? Nhân vật ấy được khắc hoạ qua những chi tiết tiêu biểu nào?
b) Xác định và nêu tác dụng của những chi tiết kì ảo trong truyện.
c) Vấn đề xã hội mà truyện đặt ra là gì? Vấn đề đó có còn trong xã hội Việt Nam ngày nay không?
d) Văn bản trên chuyển tải thông điệp gì?
e) Hãy so sánh nhân vật Nhị Khanh và nhân vật Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương).
Trả lời:
a) Nhân vật chính trong văn bản là Nhị Khanh. Nhân vật ấy được khắc hoạ qua những chi tiết tiêu biểu:
– Tuy còn nhỏ nhưng khéo léo, biết cư xử với họ hàng rất hoà mục, thờ chồng cung thuận, là người nội trợ hiền.
– Khuyên can chồng gạt bỏ tình riêng đi theo cha vào Nghệ An để thực hiện chữ hiếu. Một lòng chung thuỷ thờ chồng, khước từ mọi cám dỗ tiền bạc của tướng quân họ Bạch, chống lại lời thúc giục ép buộc của bà cô. Chủ động nhờ người bõ già đi tìm và đưa chồng về khi chồng mắc kẹt ở Nghệ An. Hết lòng khuyên can khi thấy chồng giao du với bạn xấu, sa ngã cờ bạc.
– Khi bị chồng gán nợ bạc cho Đỗ Tam, nàng giả vờ ưng thuận, rồi về dặn dò con, thắt cổ tự tử.
Sau khi chết vẫn ân tình, nhắc nhở chồng, khuyên chồng tu chí, hướng hai con đến nghĩa khí, tương lai tươi sáng.
b) Những chi tiết kì ảo trong truyện:
– Chi tiết về cuộc gặp gỡ của Trọng Quỳ với Nhị Khanh: “Trọng Quỳ lấy làm lạ, tiếng giống như tiếng Nhị Khanh, mở mắt ra nhìn thì chỉ thấy trên trời một đám mây đen bay về tây bắc. Trọng Quỳ tuy rất lấy làm ngờ nhưng cũng muốn thử xem sao, bèn đúng hẹn đến trước đền ấy. Song đến nơi chỉ thấy bóng tà rọi cửa, rêu biếc đầy sân, năm ba tiếng quạ kêu ở trên cành cây xao xác. Trọng Quỳ buồn rầu toan về thì Mặt Trời đã lặn, bèn ngả mình nằm ở tấm ván nát trên một cái cầu. Khoảng cuối canh ba, bỗng nghe thấy tiếng khóc nức nở từ xa rồi gần. Khi thấy tiếng khóc chỉ còn cách mình độ nửa trượng, nhìn kĩ thì người khóc chính là Nhị Khanh.”.
– Chi tiết Nhị Khanh khuyên Trọng Quỳ: “Vừa rồi thiếp nhân theo xe mây, lên có việc ở nơi Đế sở. Vì cớ có chàng nên thiếp đã phải bẩm xin về trước đấy, thành ra cũng sai hẹn với chàng một chút.”, “Thiếp thường theo chầu tả hữu Đức Bà ở đây, được trộm nghe chư tiên nói chuyện với nhau, bảo Hồ triều sẽ hết vào năm Bính Tuất, binh cách nổi lớn, số người bị giết chóc đến chừng hơn hai mươi vạn, ấy là chưa kể số bị bắt cướp đi.”.
= > Tác dụng của những chi tiết kì ảo trong truyện: vừa thúc đẩy cốt truyện vận động với những diễn biến mới vừa tạo tình huống để nhân vật bộc lộ những nét mới trong tính cách (Trọng Quỳ đã biết ăn năn hối lỗi hơn, đã tu chỉnh hơn để định hướng cho hai con đi theo con đường chính nghĩa); tạo ra kết thúc có hậu, thể hiện tinh thần nhân đạo của tác giả.
c) Qua câu chuyện về nàng Nhị Khanh, truyện đặt ra vấn đề về số phận bất hạnh của người phụ nữ trong chế độ xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ. Người phụ nữ phải gánh chịu những thiệt thòi, vất vả khi gia đình xảy ra biến cố, khi chồng sa ngã. Vấn đề đó vẫn còn nhưng đã giảm thiểu đáng kể trong xã hội Việt Nam ngày nay.
d) Thông điệp: Phải xây dựng một xã hội bình đẳng giữa nam và nữ, cần bảo vệ người phụ nữ, nhất là những người phụ nữ có phẩm hạnh tốt đẹp.
e) Nhân vật Nhị Khanh và Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương) đều là những người phụ nữ bất hạnh, kém may mắn trong xã hội phong kiến. Họ đều phải tìm đến cái chết để bảo toàn nhân phẩm. Tuy đều được các lực lượng siêu nhiên (thần tiên) cứu giúp và có cơ hội gặp lại chồng ở trần thế nhưng họ không thể có lại hạnh phúc gia đình. Khác với Vũ Nương, Nhị Khanh có cơ hội gặp gỡ và tác động đến chồng nhiều hơn.
Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Bài 6: Truyện truyền kì và truyện trinh thám hay khác: