X

Soạn văn lớp 10 Chân trời sáng tạo

Top 30 tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng


Haylamdo biên soạn và tổng hợp trên 30 bài văn phân tích, đánh giá tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng (Hồ Chí Minh) hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 30 tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng

Dàn ý Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng

I. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả tác phẩm: “Ngắm trăng” là bài thơ nổi tiếng của chủ tịch Hồ Chí Minh, được viết khi Người đang bị giam giữ ở nhà tù Tưởng Giới Thạch, Trung Quốc.

- Khái quát nội dung tác phẩm: Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, tinh thần lạc quan của Bác trong cảnh ngục tù tối tăm.

II. Thân bài:

1. Hoàn cảnh ngắm trăng của Bác

- Xưa nay, thi nhân khi gặp cảnh trăng đẹp sẽ mang rượu ra, ngồi dưới ánh trăng thư thái uống rượu, thưởng hoa, ngắm trăng, làm thơ. Đây được coi là thú vui tao nhã, đầy lãng mạn và thi vị.

- Hoàn cảnh ngắm trăng của Bác:

+ Thời gian: nửa đêm

+ Không gian: trong tù, nơi chỉ có 4 bức tường tối tăm và xiềng xích.

+ Điều kiện: “vô tửu diệc vô hoa” (không rượu cũng không hoa)

⇒ Hoàn cảnh đặc biệt thiếu thốn, gian khổ, ở cái nơi mà người ta chỉ có thể nghĩ đến cái chết, sự tra tấn, đau khổ nhưng dường như Bác đã quên đi hoàn cảnh và thân phận tù nhân của mình mà thoải mái đứng ngắm trăng, làm thơ.

- Tâm trạng của Bác trước cảnh trăng “khó hững hờ”:

+ Câu thơ thứ 2 là một câu hỏi tu từ, thể hiện tâm trạng bối rối, xao xuyến trước cảnh đẹp ngoài song sắt.

+ Trước cảnh trăng đẹp như vậy nhưng Bác lại không có rượu để đáp lại tình tứ của ánh trăng, điều này lại càng làm thi nhân bối rối hơn.

2. Tình yêu thiên nhiên đến say mê và phong thái ung dung của Bác

- Tình yêu thiên nhiên đến say mê của Bác:

+ Qua song sắt nhà tù, Bác vẫn cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên, của ánh trăng. Xiềng xích nhà tù chỉ có thể trói được thân thể Bác chứ không thể ngăn được tâm hồn thi nhân bay đến với thiên nhiên rộng lớn.

+ Hai câu thơ 3, 4 đối nhau: Mỗi câu thơ chia làm 3, 1 bên là “nhân” (chỉ thi nhân), 1 bên là “nguyệt” (trăng), và ở giữa là song sắt nhà tù. Cấu trúc đối này đã vẽ ra hoàn cảnh thực tại (song sắt nhà tù chia rẽ người và trăng), nhưng chính từ đó, người đọc lại thấy nổi bật lên đó là sự giao thoa, sự hòa quyện giữa thi nhân với ánh trăng, với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, Qua đó thể hiện tình bạn tri âm tri kỉ đầy xúc động giữa nhà thơ với trăng.

- Phong thái ung dung, ý chí, nghị lực kiên cường của người chiến sĩ cách mạng

+ Trong cảnh ngục tù tối tăm, Bác Hồ vẫn thể hiện được ý chí, nghị lực phi thường. phong thái ung dung, tự tại, không vướng bận vật chất. bác vẫn ngắm trăng, vẫn hòa mình vào thiên nhiên dù tay chân đang bị kìm kẹp bởi xiềng bởi xích

+ Hình ảnh Bác hướng về ánh trăng qua song sắt nhà tù đã cho thấy dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Bác vẫn luôn đau đáu hướng về bầu trời tự do, về tương lai tươi sáng của đất nước. Ánh trăng ấy hay chính là ánh sáng hy vọng mãnh liệt của một người chiến sĩ cách mạng một lòng muốn giải phóng dân tộc.

3. Nghệ thuật

- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt giản dị, ngắn gọn mà hàm súc.

- Nghệ thuật đối, nhân hóa trăng như người bạn tri âm tri kỉ

III. Kết bài

- Khái quát lại giá trị của bài thơ: Bài thơ là sự thành công về cả nội dung lẫn nghệ thuật, giúp người đọc hiểu thêm về Bác với những phẩm chất, lối sống cao đẹp.

- Liên hệ, đánh giá: Liên hệ đến các bài thơ khác để thấy được dù trong hoàn cảnh nào, những phẩm chất của Bác vẫn luôn sáng ngời.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 1

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vô cùng kính yêu của dân tộc ta, đồng thời Người cũng là một thi sĩ rất đỗi tài hoa với những vần thơ hay, sâu sắc. Bài thơ "Ngắm trăng" - "Vọng nguyệt", đã cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn của Người.

Vào tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh từ Pác Bó, Cao Bằng sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế. Thế nhưng khi tới thị trấn Túc Vinh, Trung Quốc, Bác lại bị bắt bớ và giam giữ bởi chính quyền địa phương nơi đây. Bác đã phải chịu tù đày hơn một năm ròng, bị giải tới gần 30 nhà lao ở 13 huyện tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc. Trong những ngày tháng đó, Người đã viết lên tập thơ "Nhật ký trong tù" gồm 133 bài thơ bằng chữ Hán, chủ yếu là thơ tứ tuyệt để nói lên hoàn cảnh tù đày của mình. Đồng thời "Nhật ký trong tù" cũng cho ta thấy một tâm hồn cao đẹp, một ý chí cách mạng phi thường và một tài năng thơ ca tuyệt vời. Bài thơ "Ngắm trăng" cũng được sáng tác trong hoàn cảnh ấy, khi Bác đang trong tù và nhìn thấy ánh trăng soi rọi qua khung cửa sổ nhỏ.

Bài thơ "Ngắm trăng" tuy được viết trong hoàn cảnh tù đày thế nhưng đọc bài thơ người ta có thể thấy một người thi sĩ với tâm hồn yêu thiên nhiên. Trăng vốn là tri kỉ của thi nhân, là nguồn cảm hứng vô tận cho họ, và Hồ Chí Minh cũng không ngoại lệ. Người yêu trăng vô cùng vậy nên khi bắt gặp ánh trăng soi tỏ ngoài khung cửa, Người cũng tự nhiên mà thốt lên:

"Ngục trung vô tửu diệc vô hoa"
(Trong tù không rượu cũng không hoa)

Thi nhân xưa khi thưởng trăng bao giờ cũng có rượu có hoa bên cạnh. Bởi rượu và hoa làm trăng trở nên thi vị và con người cũng không còn cô đơn dưới ánh trăng ấy. Thế nhưng mở đầu bài thơ của mình, Hồ Chí Minh lại kể rằng "không rượu cũng không hoa" bởi Người đang bị giam cầm trong ngục thất. Từ "diệc"(cũng) được đặt ở giữa câu thơ khiến cho ta cảm thấy sự thiếu thốn đến vô cùng của người tù cách mạng. Thế nhưng câu thơ lại như một lời kể bật ra rất thản nhiên, không hề có một chút kêu ca, bực bội hoàn cảnh hiện tại. Người hoàn toàn bình thản đón nhận nó như một lẽ đương nhiên.

Câu thơ thứ hai cất lên thể hiện rõ sự băn khoăn của nhà thơ trước cảnh đẹp:

"Đối thử lương tiêu nại nhược hà?"
(Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ)

Câu thơ được hoà trộn bởi nhịp bằng trắc liên hồi, đều đặn của các vần thơ cho thấy một tâm trạng xốn xang khó tả của thi nhân. Là một con người yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp thì ắt hẳn trước khung cảnh trăng sáng như đêm nay làm sao mà Bác muốn bỏ lỡ cơ chứ. Nhưng trong hoàn cảnh thiếu thốn này, trong ngục tù này thì làm sao có thể thưởng trăng một cách trọn vẹn, vậy nên Người mới bối rối, mới tiếc nuối, mới tự hỏi lòng.

Thế nhưng với một tình yêu thiên nhiên mãnh liệt và say mê đã giúp Người chiến thắng được hoàn cảnh. Không được hòa mình trong trong ánh trăng ấy, Người đã chọn cách ngắm trăng rất đặc biệt - thực hiện một cuộc "vượt ngục tinh thần":

"Nhân hướng song tiền hướng minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia"

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ)

Có thể bữa tiệc ngắm trăng của Người không có rượu, không có hoa, nhưng lại có một tâm hồn say mê cái đẹp hơn hết thảy, chỉ cần vậy là đủ cho bữa tiệc này. Những phép đối được Bác sử dụng liên tiếp "nhân - nguyệt", "hướng - tòng",... thể hiện sự đồng điệu, giao hoà giữa người và trăng, người và trăng trở thành một đôi bạn tri kỷ. "Nhân" - người hướng ra ngoài cửa sổ ngắm trắng. Đáp lại, "nguyệt" - trăng cũng qua khe cửa mà ngắm lại nhà thơ. Giữa người và trăng cách nhau bởi song sắt nhà tù thế nhưng song cửa sắt ấy lại chẳng thể thắng nổi mối tương giao giữa hai chủ thể đó. Song sắt nhà tù ngăn chặn bước chân của người, thế nhưng chẳng thể chặn nổi một tâm hồn yêu thiên nhiên đang tự do bay bổng với ánh trăng tuyệt đẹp.

Bài thơ đã cho thấy một tâm hồn thi sĩ, yêu thiên nhiên hết mực của Hồ Chí Minh. Dù trong hoàn cảnh tù đày thiếu thốn, thế nhưng, Người vẫn có thể hoà mình vào cùng với ánh trăng và thưởng thức nó một cách trọn vẹn. Với tình yêu thiên nhiên dạt dào của mình thì không một rào cản nào có thể khiến người chiến sĩ cách mạng bỏ lỡ một cảnh sắc tuyệt vời như ánh trăng!

Thế nhưng, ta không chỉ cảm nhận được một tâm hồn thi sĩ, trái tim yêu thiên nhiên hết mực của Bác mà còn cảm nhận được phong thái ung dung, lạc quan dù ở chốn tù đày tối tăm. Nhà tù khiến cho con người ta sợ hãi không chỉ bởi sự thiếu thốn vật chất:

"Gầy đen như quỷ đói
Ghẻ lở mọc đầy thân"

Mà còn là sự nao núng về tinh thần khi bị giam cầm trong một nơi chật hẹp và tối tăm. Thế nhưng ở Hồ Chí Minh, qua bài thơ "Ngắm trăng" của Người, ta cảm thấy ở Bác chứa đựng một sự ung dung, lạc quan trước hoàn cảnh đến lạ thường. Trong ngục, thiếu thốn nhưng Người vẫn chỉ thản nhiên chấp nhận, coi đó là chuyện đương nhiên. Không chỉ vậy, giữa nhà tù hôi hám, bẩn thỉu, Người vẫn luôn hướng về ánh trăng, hướng về vẻ đẹp vĩnh cửu của vũ trụ mà thưởng thức, mà giao hoà như những người tri kỷ. Và hơn thế, ta còn cảm nhận được một tâm hồn tự do hết thảy đang bay bổng, thoát khỏi buồng giam tối tăm này để bay lên cùng ánh trăng tuyệt vời.

Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, là một thể thơ Đường cổ, cùng với chất liệu quen thuộc là ánh trăng. Thế nhưng nó được vẽ lên bởi một tâm hồn yêu thiên nhiên, tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời của Hồ Chí Minh. Nhịp thơ chậm rãi cùng hình ảnh thơ sinh động, hàm súc đã khiến cho ta có thể thấy được tâm hồn cao cả của một người chiến sĩ cách mạng dù trong hoàn cảnh tù đày tăm tối.

Hoài Thanh đã từng nhận xét "thơ Bác đầy trăng", phải, với Bác, trăng là nguồn cảm hứng vô tận. Thế nhưng, qua bài thơ "Ngắm trăng" ta không chỉ thấy được thiên nhiên đẹp mà đồng thời còn thấy được bức chân dung tinh thần của Hồ Chí Minh. Bài thơ xứng đáng là một thi phẩm để đời của Người.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 2

Trăng vốn là người bạn tâm tình, là nguồn cảm hứng dạt dào, bất tận của thi sĩ muôn đời. Trong thơ đông tây kim cổ đã có biết bao bài thơ hay viết về trăng, để lại ấn tượng không phai trong trái tim người đọc. Một trong những tác giả viết nhiều về trăng là Hồ Chí Minh. Suốt cuộc đời cách mạng gian truân và vẻ vang của Bác, Bác luôn coi trăng là tri âm, tri kỉ.

Bài thơ Ngắm trăng (Vọng nguyệt) ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt là chốn lao tù tăm tối của chế độ Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc, vào khoảng những năm bốn mươi hai, bốn mươi ba của thế kỉ XX. Người tù thi sĩ tay bị xích, chân bị cùm, thân thể đọa đày nơi ngục lạnh mà tâm hồn vẫn lâng lâng, thanh thản, say mê thưởng thức vẻ đẹp của đêm trăng sáng:

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thủ lương tiêu nại nhược hà ?

(Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;)

Câu thơ đầu tả thực cảnh lao tù khắc nghiệt: không rượu cũng không hoa. Trong tù làm gì có rượu và hoa là những thứ vốn để tạo thi hứng cho tâm hồn thi sĩ? Xưa nay, uống rượu ngắm trăng, uống rượu thưởng hoa là chuyện thường tình. Trong những đêm trăng đẹp, thi nhân thường đem rượu ra uống để thưởng hoa, thưởng trăng. Có đầy đủ rượu và hoa thì cuộc vui mới thật thú vị, mĩ mãn. Nói chung, người ta chỉ ngắm trăng khi thảnh thơi, tâm hồn thư thái. Nhưng ở đây, thi sĩ ngắm trăng trong hoàn cảnh đặc biệt là chốn lao tù mà bản thân bị đày đọa cực khổ, phải sống cuộc sống "khác loài người", không phù hợp với thú thưởng nguyệt thanh cao. Làm gì có rượu và hoa để thưởng trăng ? Chẳng có nhà tù nào lại "nhân đạo" đến mức mỗi kì trăng sáng lại mang rượu và hoa đến cho tù nhân ngắm trăng. Ý thơ chỉ có thể hiểu rằng, trước cảnh đêm trăng quá đẹp, thi sĩ bỗng khao khát được thưởng trăng một cách trọn vẹn.

Mặc dù giữa chốn lao tù, cái không rượu chồng lên cái không hoa..., hiện thực xám ngắt và lạnh lẽo phủ định tất cả, nhưng trong trái tim yêu đời thiết tha của Bác, cảm hứng vẫn dạt dào, nồng đượm khiến Người phải thốt lên: Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ. Câu thơ thể hiện niềm xao xuyến, rạo rực của Bác trước đêm trăng đẹp. vầng trăng tròn đầy, ngời sáng kia như thúc giục, mời gọi thi nhân hãy ra giữa chốn tự do mà chiêm ngưỡng, mà bầu bạn với trăng. Ngặt nỗi hoàn cảnh giam cầm trói buộc cho nên việc thưởng trăng của người tù - thi sĩ chỉ thu gọn trong một cử chỉ âm thầm, lặng lẽ:

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.)

Bác say mê ngắm trăng qua cửa sổ. Bốn bức tường xà lim chật hẹp không ngăn nổi cảm xúc mênh mông. Bác thả hồn theo ánh trăng và gửi gắm vào đó khát vọng tự do cháy bỏng. Dường như thi sĩ muốn nhắn gửi đến trăng lời thì thầm tâm sự: Trăng ơi, trăng có hiểu lòng ta yêu trăng đến độ nào?

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Vầng trăng đã vượt qua song sắt để ngắm nhà thơ (khán thi gia) trong tù. Vậy là cả người và trăng đều chủ động tìm đến nhau. Nghệ thuật nhân hóa cho thấy thi sĩ tù nhân và vầng trăng tự do đã trở nên gắn bó thân thiết tự bao giờ.

Cả bài thơ không có một âm thanh nào dù là nhỏ. Không gian tĩnh lặng tuyệt đối tôn lên cái sâu thẳm của hồn người và hồn tạo vật. Người ngắm trăng, trăng ngắm người trong lặng lẽ, không nói mà nói bao điều.

Hai câu thơ còn cho thấy sức mạnh tinh thần kì diệu của người tù thi sĩ ấy. Trong này là nhà lao đen tối, là hiện thực tàn bạo, còn ngoài kia là vầng trăng thơ mộng, là thế giới của tự do, của vẻ đẹp lãng mạn làm say đắm lòng người. Giữa hai đối cực đó là song sắt nhà tù, nhưng song sắt nhà tù cũng bất lực trước khát vọng và rung cảm tinh tế của hồn thơ.

Hai câu thơ chữ Hán trong nguyên tác thể hiện đầy đủ hơn mối giao hòa đặc biệt giữa người tù thi sĩ với vầng trăng. Lối đối rất chỉnh đã làm nổi bật tình cảm mãnh liệt của cả người và trăng. Giữa nhân và nguyệt dẫu có song sắt nhà tù chắn giữa nhưng con người đã để tâm hồn bay bổng vượt ra ngoài không gian chật hẹp, tù hãm để ngắm trăng sáng (Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt), tức là để bầu bạn. với vầng trăng đang tự do tỏa mộng giữa trời. Trăng dường như cũng hiểu lòng người và nhiệt thành đền đáp lại: Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ (Nguyệt tòng song khích khán thi gia).

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 3

Mở đầu tập nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh có viết như một lời tâm sự:

Ngâm thơ ta vốn không ham

Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây

Ngày dài ngâm ngợi cho khuây

Càng ngâm càng đợi đến ngày tự do

Thơ đối với Người, thành nỗi giải khuây nhưng với người đọc, bắt gặp bất cứ một bài thơ nào cũng thấy hiện lên trong đó tâm hồn của một thi sĩ, một chiến sĩ, người luôn hướng ra ánh sáng. “Ngắm trăng” là một bài thơ như thế.

Nhan đề bài thơ là “Vọng nguyệt”, đó là đề tài phổ biến trong thi ca, cũng trở thành thi hứng cho biết bao tác giả, trăng là bạn tri ân để dốc bầu tâm sự. Gặp ánh trăng, thơ Bác cũng tự nhiên như thiên nhiên vậy:

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa

(Trong tù không rượu cũng không hoa)

Lẽ thường, nhà thơ gặp trăng đẹp thường đem rượu uống, đem hoa ra ngắm. Bởi có rượu, có hoa thì trăng trở nên thi vị và con người cũng trở nên không cô đơn dưới đêm trăng ấy. Nhưng câu mở đầu bài thơ, Hồ Chí Minh như kể tự nhiên chứ không hề kêu ca về hoàn cảnh.

Một con người đang bị giam cầm, mất tự do “ngục trung” nên “vô tửu, vô hoa” là điều tất yếu. từ “diệc” làm cho sự thiếu thốn tăng lên. Nhưng chúng ta vẫn thấy giọng thơ của Bác không hề bực bội vì thiếu thốn mà hết sức bình thản đón nhận nó. Đến câu thơ thứ hai, vẫn giữ nét tự nhiên, vần thơ trở thành câu hỏi:

Đối thử lương tiêu nại nhược hà?

(Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ)

Câu thơ nhịp nhàng bởi sự hòa trộn của các vần bằng- trắc đều đặn, có cái bối rồi, xốn xang rất nghệ sĩ. Trước cảnh đẹp đêm trăng, tâm hồn nghệ sĩ yêu say đắm thiên nhiên, ắt hẳn cũng muốn thưởng trăng đầy đủ, nhưng trong tù thì không thể có, nên người tiếc nhưng không để cảnh đẹp ấy trôi qua vô ích, vì thế có cái bối rối: Làm thế nào có thể hững hờ trước cảnh đẹp?

Nhưng cũng có thể đó là lời khẳng định nhẹ nhàng: Không thể hững hờ trước cảnh đẹp dù có thiếu thốn. Chính thực tế thiếu thốn gặp một tâm hồn yêu thiên nhiên, say đắm trước thiên nhiên đã tạo ra cách hỏi hóm hỉnh như một cái cười rất tinh tế của Hồ Chí Minh. Tình yêu thiên nhiên đã giúp Bác chiến thắng hoàn cảnh:

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ)

Rượu, hoa đã thiếu nhưng dường như chính tâm hồn nhà thơ đã đủ cho một bữa tiệc thưởng trăng. Nhân - nguyệt, Nguyệt - Thi gia có “song” chắn ở giữa nhưng có lẽ ngục tù không thể thắng nổi mối tương giao giữa người ngắm trăng và trăng tìm đến người. Song sắt hiện lên thô bạo, vô tình nhưng bất lực bởi trăng và Người vẫn gặp nhau vô cùng tự do, tinh tế.

Trước cuộc ngắm trăng, Bác là người tù, tìm được trăng nhưng cuối cuộc trăng, người tù ấy trở thành “thi gia”- nhà thơ. Có người nhận xét: đây là một cuộc vượt ngục tinh thần, quả không sai. Bị giam cầm trong tù ngục nhưng tâm hồn Bác lại luôn hướng đến ánh sáng, hướng đến thiên nhiên.

Cuộc ngắm trăng của Bác diễn ra qua bốn dòng thơ ngắn gọn mà thấy được cái hồn hòa nhập vào thiên nhiên, quyến luyến, gắn bó với thiên nhiên của một vị lãnh tụ. Với Bác, bất cứ ai ngắm trăng thì cũng được trăng ngắm lại, vẻ đẹp của con người cũng đủ sức làm say đắm vầng trăng. Điều đó không chỉ khẳng định cái hay, mới lạ trong bút pháp mà còn thấy được sự nét tinh tế hiện đại của Người khi tìm đến một thi liệu đã quen thuộc trong cổ điển.

Dù trong hoàn cảnh nào Bác vẫn luôn dành cho thiên nhiên một chỗ đứng vững trãi. Có khi thiên nhiên để khỏa lấp sự cô đơn, có thiên nhiên báo hiệu niềm vui chiến thắng, có khi thiên nhiên để dốc bầu tâm sự nhưng cũng có khi thiên nhiên chở nặng khao khát được tự do, chở nặng một tâm hồn muốn hướng ra ánh sáng. “Ngắm trăng" là bài thơ khẳng định tâm hồn, cốt cách của một thi sĩ, sự thanh cao của vị lãnh tụ trong hoàn cảnh tăm tối, ngục tù.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 4

Nguyễn Ái Quốc là một vị lãnh tụ vĩ đại một người cha già của dân tộc. Người là một nhà cách mạng sáng lập ra đảng cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam éo trong việc hành văn của Bác.

Trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, giải đi gần 30 nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây bị đày đọa hơn một năm trời. Thời gian này người đã viết Nhật kí trong tù gồm 113 bài. Bài thơ ngắm trăng được trích từ tập thơ này. Bài thơ ghi lại cảnh ngắm trăng trong tù từ đó nói lên tình yêu trăng yêu thiên nhiên tha thiết mong muốn được hòa mình vào trong thiên nhiên cảnh vật.

Trong câu thơ đầu tác giả đã kể ra những thiếu thốn trong tù: "Trong tù không rượu cũng không hoa". Trong tù thì thiếu thốn biết bao nhiêu là thứ nào là cơm nước quần áo nào chăn màn nhất là trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch thì cái thiếu thốn ấy lại càng được tăng lên gấp bội khi giam cầm một nhà chính trị một nhà cách mạng.

Nhưng đối với Hồ Chí Minh thì những thứ thiếu thốn lại là "rượu" và "hoa"phải chăng bởi đó là những thứ không thể thiếu khi người thi nhân ngắm trăng ngắm vẻ đẹp của chị Hằng. Bởi khi có rượu có hoa thì mới đủ thi vị ngắm trăng, khi đó người thi sĩ sẽ không còn cảm thấy cô đơn với thiên nhiên nữa. Trong tù thiếu thốn là thế nhưng tác giả kể với một tâm trạng hoàn toàn vui vẻ chấp nhận mọi thiếu thốn hoàn cảnh.

Theo lẽ thường thì khi bị nhốt trong tù thì con người ta sẽ thường ngột ngạt khó chịu và thơ viết muộn phiền cả ngày. Nhưng đối với tâm hồn yêu thiên nhiên của Hồ Chí Minh thì hoàn toàn khác. Trong tâm trí của người lúc nào cũng là thiên nhiên là cảnh vật, yêu thiên nhiên muốn ra ngoài làm bạn với thiên nhiên nhưng tâm trạng nhà thơ không giống như Tố Hữu bức bối khi nhìn thấy thiên nhiên

"Ngột làm sao chết uất thôi

Khi con tu hú ngoài trời cứ kêu"

Hồ Chí Minh đã quên đi cái thân phận của người tù đã quên đi tất cả những cơ cực của nhà tù để đón nhận thiên nhiên đón nhận vẻ đẹp của ánh trăng đón nhận một đêm trăng đẹp với tư cách một thi nhân hơn nữa là một thi gia. Vẫn tâm trạng đó được nhuốm màu sang câu thơ tiếp theo.

"Đối thử lương tiêu nại nhược hà

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ"

Trong thơ nguyên tác câu thơ thứ hai là hỏi nhưng trong bản dịch lại là câu trần thuật làm mất đi cái ý tưởng đẹp của câu thơ, Sự bối rối xúc động trong bản dịch của nhà thơ bị mất đi thay vào đó là sự phủ định «khó hững hờ», sự bối rối xúc động của nhà thơ không còn nữa.

Trước cảnh đẹp đêm trăng như thế người thi sĩ không biết làm thế nào khi cảnh đẹp huyền ảo như thế, Nhà thơ không thể cưỡng lại được vẻ đẹp của thiên nhiên, Câu hỏi tự nhiên ấy cho thấy lòng yêu thiên nhiên say đắm và khát khao được thưởng thức cái đẹp của Bác. Ta thấy câu hỏi ấy là một câu hỏi băn khoăn đối với người đọc nhưng đối với Bác đó là một câu hỏi tu từ nhằm nhấn mạnh cách giải quyết tối ưu của mình.

Ánh trăng thanh khiết vời vợi kia như thúc giục mời gọi thi nhân hãy ra ngoài chốn tự do để giao hòa chia sẻ. Thế là mặc thiếu thốn vật chất thiếu thốn "không rượu cũng không hoa" mặc không gian chật hẹp của nhà tù mặc cho song sắt ngoài cửa sổ hai tâm hồn để hòa nhập vào nhau thả hồn cho nhau và Bác gửi gắm vào đó khát vọng tự do và người tù ngắm trăng với một tâm thế (vượt ngục).

"Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia"

Trong bản dịch là

"Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ"

Hai câu thơ bản dịch cũng kém phần đăng đối hơn so với phiên âm hơn nữa tư nhòm và ngắm trong bản dịch là hai từ đồng nghĩa khiến cho bản dịch không đảm bảo được sự cô đúc cả ý tứ của thể thơ. Trong hai câu thơ bác sử dụng nghệ thuật đăng đối tài tình và sử dụng nghệ thuật nhân hóa đúng lúc làm cho trăng và người trở nên gần gũi thân thiết trở thành tri âm tri kỉ cùng hành động như nhau cùng vượt qua song sắt của nhà tù để đến với nhau.

Ở đây trăng và người đều là sự hóa thân của Bác, sự hóa thân của một tâm hồn vừa là nghệ sĩ vừa là chiến sĩ yêu tự do chủ động tìm đến cái đẹp mà không nhà ngục nào ngăn cản được

Trong bài thơ này quan hệ giữa người và trăng là quan hệ gần gũi bình đẳng. Trăng có vẻ đẹp của trăng người có vẻ đẹp của tâm hồn Trăng vượt song sắt của nhà tù không ngắm tù nhân hay người bị giam mà ngắm thi gia. Đây là giây phút thăng hoa tỏa sáng trong con người Bác và đây cũng là lần đầu tiên Bác tự thi gia.

Trong giây phút này chỉ với tư cách là thi gia mới có thể giao lưu thân mật cùng ánh trăng kia. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của vũ trụ, niềm khao khát muôn đời của các thi nhân. Vậy mà nay vầng trăng lên mình qua song sắt chật hẹp, đặt chân vào chốn lao tù ẩm ướt để chiêm ngưỡng nhà thơ hay chính là tâm hồn nhà thơ vậy. Điều đó thể hiện vẻ đẹp trong con người Hồ Chí Minh.

Tác phẩm cho thấy cho dù ở trong hoàn cảnh đặc biệt bị giam hãm trong tù không có rượu cũng chẳng có hoa nhưng Bác vẫn không hề chán nản tuyệt vọng mà ngược lại người vẫn giữ được phong thái ung dung tự tại và hòa mình vào thiên nhiên hơn nữa người đã hoàn thành một cách ngoạn mục cuộc vượt ngục bằng tinh thần để rồi đắm mình trong không gian rộng lớn mênh mông và thơ mộng cùng ánh trăng ngoài song sắt nhà tù.

Nghệ thuật trong bài ngắm trăng của Bác giống như các cuộc ngắm trăng khác trong những bài thơ bác viết khi chịu cảnh tù đày. Song có thể nói mỗi bài thơ bác viết và trăng lại có những nét riêng: trăng đầy sức sống đầy sức xuân trong Rằm tháng giêng trăng thi vị và tri kỉ trong Báo tiệp. Nói chung trong tất cả những bài thơ này bác đều đã cho người đọc thấy vẻ đẹp của một tâm hồn thi sĩ luôn mở rộng lòng để giao hòa cùng với thiên nhiên.

Cuộc ngắm trăng của Bác diễn ra qua bốn dòng thơ ngắn gọn mà ta thấy được cái hồn hòa nhập vào thiên nhiên, quyến luyến gắn bó với thiên nhiên của một vị lãnh tụ. Với Bác bất cứ ai ngắm trăng thì cũng được trăng ngắm lại vẻ đẹp của con người cũng đủ sức làm say đắm vầng trăng. Điều đó không chỉ khẳng định cái hay mới lạ trong bút pháp mà còn thấy được nét tinh tế hiện đại của Người khi tìm đến một thi liệu đã quen thuộc trong cổ điển.

Ngắm trăng thưởng thức trăng đối với Bác Hồ là một tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do, tự do cho con người và tự do và tự do hưởng mọi vẻ đẹp của thiên nhiên xứ sở. Dù trong hoàn cảnh nào Bác vẫn luôn hướng đến thiên nhiên hòa nhập vào thiên nhiên.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 5

Hồ Chủ tịch, vị cha già kính yêu của dân tộc, một con người vĩ đại của đất nước và dân tộc Việt Nam. Một con người đã dành cả cuộc đời mình làm nên những điều phi thường và kì tích cho dân tộc, cho đất nước. Tấm lòng của Bác cả dân tộc Việt Nam đều thấu hiểu, con dân Việt Nam đời đời nhớ công ơn Bác.

Cuộc đời Bác vì nghĩa lớn mà bao phen khốn khổ vì phải chịu cảnh đọa đầy, thê lương trong ngục tù. Trong khoảng thời gian từ năm 1942 đến năm 1943, Bác Hồ bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ, đọa đầy trong chốn ngục tù. Đây là khoảng thời gian Bác cho ra đời những bài thơ ghi lại cảnh sinh hoạt trong tù của Bác. Tuy nhiên, những bài thơ đó không phải là những bài thơ đơn thuần. Vì thực chất, nó có ý nghĩa tố cáo chế độ nhà tù khắc nghiệt của chính quyền Tưởng Giới Thạch một cách sâu sắc và ghê gớm vô cùng. Ngắm trăng cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu của tập thơ:

“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa

Đối thử lương tiêu nại nhược hà?

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia"

(Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ)

Trăng trong tâm tưởng của các bậc thi nhân ngày xưa vốn là người bạn tri âm tri kỉ của họ. Những nỗi lòng khó giãi bày cũng đặc biệt được giãi bày cùng trăng. Các thi nhân xưa ngắm trăng cũng là lấy làm một thú vui tao nhã. Uống rượu, ngắm trăng, vịnh thơ, còn cái gì tuyệt vời hơn thế. Với khung cảnh của cuộc chơi trăng là những đêm trăng trong trẻo thanh tịnh, được hòa cùng thiên nhiên, cũng là hòa cùng những giai điệu của cuộc sống, của cuộc đời. Nhưng đêm nay, cũng là ngắm trăng, cũng là tức cảnh sinh tình đó nhưng lại ở trong một hoàn cảnh quá ư đặc biệt khi Bác ngắm trăng trong tù, ngắm trăng trong cảnh tù đày, bị hành hạ, áp bức, lại ở nơi đất khách quê người. Trong hoàn cảnh như thế, tâm hồn con người sẽ có quá ư những mối tơ lòng.

“Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”

Vốn là người có tâm hồn nghệ sĩ, Bác Hồ là người có tâm hồn rất dễ rung cảm với những biến động của thiên nhiên, của cuộc đời. Hôm nay, trong một ngày của cuộc sống lao tù vất vả, cũng không rõ là trong ngày hôm nay đã xảy ra chuyện gì, nhưng có thể thấy rõ rệt rằng hôm nay, Bác rất có tâm tình, tâm tình muốn được giải tỏa. Những điều Bác muốn bây giờ là được thoát khỏi cái tù túng nơi buồng giam này, không thì chỉ cần thấy được sự tự do của bên ngoài một chút thôi cũng được. Vậy mà, muốn rượu không có rượu tiêu sầu, muốn ngắm hoa cho lòng thanh thản nhưng xung quanh chỉ là bóng tối. Nhưng hôm nay, thiên nhiên nhìn qua song sắt nhà đề lao này trong mắt người thi sĩ, người chiến sĩ đồng người tù này lại nên thơ và hữu tình vô cùng:

"Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

Trong điều kiện thiếu thốn của nhà tù, việc ngắm trăng của Bác cũng thành bữa tiệc thiếu thốn rất nhiều những quy chuẩn của việc chơi trăng, ngắm trăng vốn có. Đó là phải có rượu, có bạn tri âm và được ngồi tự do phóng thoáng trong khung cảnh thiên nhiên mây gió. Nhưng giờ đây, trong hoàn cảnh này Bác thiếu thốn tất. Tuy nhiên, tâm hồn Bác vẫn thấy rõ rệt sự cảm khái thanh thản đến từ tận sâu cõi lòng vì Bác biết, trăng – người bạn tri kỉ đang trên cao kia cũng thấu hiểu tâm tình của Bác lắm. Bác hướng đôi mắt của mình ra cửa sổ để trông trăng và cũng nhìn nhận được vầng trăng trong trẻo, hiền từ cũng đang đáp lại tấm lòng của Bác. Ánh trăng trong sáng và tròn đầy soi rọi vào tâm hồn Bác, giúp Bác xóa tan những mệt mỏi, u sầu. Có thể thấy được phong thái ung dung của Bác trong cảnh đọa đầy, phong thái này không phải dễ có được, phải là người có chí hướng lớn, luôn lạc quan mới có thể giữ cho mình tấm lòng thanh thuần kể cả trong chốn lao tù như thế.

Bài thơ Ngắm trăng không phải đơn thuần chỉ miêu tả cảnh thiên nhiên mà đó còn là những lời thơ thể hiện tinh thần, tấm lòng của Bác. Một con người với nhân cách lớn, trong cuộc sống tù đầy vẫn ung dung, lạc quan, hướng về phía trước.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 6

Nhắc đến Hồ Chí Minh, bất kì ai cũng dành cho Người sự biết ơn và kính trọng. Tuy Bác đã ra đi nhưng hình ảnh Người mãi tồn tại trong trái tim người Việt với tất cả những gì đẹp nhất, sáng ngời và cao quý nhất. Bác không chỉ là nhà lãnh tụ tài ba mà còn là một nhà thơ nổi tiếng với những vần thơ thật đẹp nói về tình yêu Tổ quốc và tình yêu thiên nhiên dào dạt. Một trong những bài thơ hay viết về tinh thần của người chiến sĩ cách mạng phải kể đến là bài thơ “Ngắm trăng”, tuy ngắn gọn nhưng toát lên một khí chất ngút trời.

Bài thơ được Bác sáng tác khi bị giam cầm ở nhà tù Tưởng Giới Thạch với những vần đẹp nhất.

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa

Đối thử lương tiêu nại nhược hà

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia

Dịch thơ:

Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng dòm khe cửa ngắm nhà thơ

Những câu thơ nhẹ nhàng dễ dàng thấm sâu vào tâm hồn bạn đọc với một niềm ngưỡng mộ đầy cảm kích. Bài thơ là “Ngắm trăng” nhưng nó lại ở trong một hoàn cảnh rất đặc biệt và lạ thường:

Trong tù không rượu cũng không hoa

Người xưa, mỗi khi ngắm trăng thường có bạn hiền, vừa nhâm nhi chén rượu cay nồng vừa thưởng thức vẻ đẹp của vầng ánh sáng dịu hiền đang chiếu rọi xuống nhân gian. Họ ngắm trăng bên vườn hoa rực rỡ sắc màu và hương thơm. Trên trời, dưới đất, thiên nhiên, con người hòa quyện vào nhau, say đắm trong nhau để cảm nhận được hết cái đẹp, cái nên thơ của tạo vật. Nhưng ở đây, Bác ngắm trăng trong một không gian lạ thường quá. Đã không có hoa, có bạn lại còn bị giam cầm trong không gian tối tăm, hôi hám của chốn ngục tù. Dù cuộc sống có khó khăn và chật chội cũng không đủ ngăn cản tâm hồn bay bổng của người tù binh. Để từ đó, ta cảm nhận được, Bác yêu thiên nhiên đến thế nào. Khi trong hoàn cảnh ấy, con người thường đớn đau trước cái đói, cái lạnh thì Bác vẫn hướng tới thiên nhiên, quên hết đi thực tại của số phận. Tình yêu thiên nhiên trong con người Bác đủ để vượt qua tất cả và cũng bởi cảnh đẹp quá, không thể chối từ.

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Vầng trăng ấy tròn trịa, sáng vằng vặc trong cái đêm nhẹ nhàng của những cơn gió và chút tĩnh lặng của không gian. Cảnh đẹp là vậy, nên thơ là vậy, làm sao con người có thể hững hờ mà bỏ qua nhất là đối với một tâm hồn yêu thiên nhiên, đất trời như Bác. Dường như, trong hoàn cảnh bị giam cầm về thể xác nhưng tâm hồn Bác vẫn bay bổng cùng với gió trăng bởi như Người đã viết:

Thân thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao

Họ có thể trói buộc Bác, giam cầm Bác nhưng làm sao có thể kìm hãm được tình yêu đối với thiên nhiên vẫn luôn trực trào trong tâm hồn của Bác. Và Người, đã vượt qua tất cả để được thả hồn cùng ánh trăng dịu hiền.

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ

Bác phóng tầm mắt của mình đi xa hơn, cao hơn, chạm tới tận vầng trăng. Vầng trăng cũng như để đáp lại tinh thần ấy mà hướng xuống nhìn người thi sĩ đang say mê trong vẻ đẹp của đất trời. Con người và thiên nhiên hòa hợp, đan lồng vào nhau. Một sự đồng điệu như chính tâm hồn của những người tri kỉ, luôn dành ánh mắt và cái nhìn về phía đối phương. Tình yêu thiên nhiên vượt lên trên gian khó của Bác đã làm cho vầng trăng, một vật vô tri vô giác có thể thấu hiểu để rồi sẵn sàng đáp lại. Điều đó giúp ta thấu được vẻ đẹp trong tâm hồn Bác, một vẻ đẹp rạng ngời và sáng soi như chính thứ ánh sáng dịu dàng và đẹp đẽ của vầng trăng. Bác yêu thiên nhiên, thiên nhiên thấu hiểu tâm hồn ấy. Cả hai ngắm nhìn nhau, mê đắm trong nhau như những trái tim đồng điệu, đong đầy tình nghĩa và sự mến yêu.

Như vậy, qua bốn câu thơ của bài “Ngắm trăng”, ta đã cảm nhận được tinh thần yêu thiên nhiên của Bác Hồ thật là cao đẹp. Qua đó, ta càng thêm ngưỡng mộ tinh thần lạc quan của người lãnh tụ vĩ đại, dù gian nan vất vả đến đâu, Bác vẫn giữ vững niềm tin và hy vọng về những gì tốt đẹp, tươi sáng nhất cho tương lai phía trước.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 7

Tác giả Hồ Chí Minh là một nhà văn, nhà thơ đồng thời cũng là một nhà chính trị, cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam. Ông đã để lại nhiều tác phẩm hay gây được tiếng vang lớn trong nền thi ca nước ta.

Bài thơ “Ngắm trăng” lấy nguồn cảm hứng từ ánh trăng đêm, trong sáng là đề tài được nhiều tác giả sử dụng, nhưng trong bài thơ của Hồ Chí Minh. Trăng không chỉ là hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, mà nó còn là người bạn thân tri kỷ.

Tác giả Hồ Chí Minh viết bài thơ này trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt khi tác giả đang bị giam cầm bởi nhà tù của Tưởng Giới Thạch. Mặc dù, trong hoàn cảnh tù đày nhưng tâm hồn của tác giả vẫn vô cùng tự do, phóng khoáng thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời của tác giả.

“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa

Đối thử lương tiêu nại nhược hà?”

(Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ).

Câu thơ thể hiện tình cảnh thực tại nhiều khó khăn, khắc nghiệt, khi người chiến sĩ bị cầm tù. Hình ảnh không rượu, không hoa, không có gì để lãng mạn trữ tình như những nhà thơ xưa thường dùng rượu và hoa để mà ngâm thơ. Nhưng tác giả Hồ Chí Minh thì đang trong hoàn cảnh bị ngược đãi về thể xác, chịu cảnh tù đày thì làm sao phong lưu uống rượu, ngắm hoa, thưởng trăng như người xưa được.

Tuy nhiên dù thân thể có chịu giam cầm, không có những chất xúc tác để có thể phong hoa bướm nguyệt nhưng tác giả vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên hoang dã. Cảnh buổi đẹp với ánh trăng soi sáng, vằng vặc, chung thủy vẹn nguyên khiến cho tác giả không thể nào bỏ qua được.

“Khó hững hờ” thể hiện cái đẹp của ánh trăng của thiên nhiên đã làm tác giả động lòng không thể nào làm ngơ.

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ).

Hai câu thơ này, thể hiện sự hòa hợp về tâm hồn của tác giả và ánh trăng. Họ như hai người bạn thân lâu ngày gặp lại nhìn thấy nhau vui mừng khôn xiết, trong đôi mắt như đang rưng rưng nhạt nhòa xúc động.

Trăng đã được tác giả sử dụng biện pháp nhân cách hóa để trở thành một con người. Một người bạn thân, đang nhìn ngắm người thân thương của mình một cách say đắm.

Tác giả nhìn ánh trăng ngây thơ, hồn nhiên, trong veo thánh thiện như thuở nào. Lòng tác giả chợt trào dâng niềm xúc động mạnh mẽ, ước muốn tự do được trở về quê hương đất nước dâng lên mãnh liệt.

Xuyên suốt bài thơ là sự im lặng tuyệt đối của con người và thiên nhiên. Trong cái mênh mông bao la đó chỉ có con người và ánh trăng đang ngắm nhìn nhau. Tuy cả hai không nói điều gì những trái tim đã nói hộ ngàn lời muốn nói.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 8

“Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp

Mây gió, trăng hoa, tuyết núi sông”.

Thiên nhiên đã trở thành nơi chốn bình yên để tâm hồn thanh khiết của người nghệ sĩ nương náu, không vướng bụi trần. Đối với vị lãnh tụ Hồ Chí Minh – người chiến sĩ cách mạng cộng sản lại đến với thiên nhiên trong hoàn cảnh trớ trêu nhưng vẫn toát lên tình yêu sâu đậm dành cho thiên nhiên.

“Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”

Mở đầu thi phẩm là những vần thơ phác họa một cách chân thực cuộc sống trong tù khổ cực và gian lao của Bác. Điệp cấu trúc “không...không...” đã khắc họa cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nơi chốn ngục tù. Thời xưa, rượu và hoa đã trở thành thú vui tao nhã không thể thiếu cho những người lãng tử vì nghệ thuật, trong những buổi ngắm trăng đầy lãng mạn. Hình ảnh trăng lúc này càng trở nên rõ nét và sinh động hơn.

Bác đắm say trước cảnh đẹp đêm trăng. Vầng trăng ấy đã chiếu rọi tâm hồn thi nhân, khúc xạ những cảm xúc, những rung động với hoàn cảnh thực tại khiến bác có chút bối rối. Trăng luôn là nguồn cảm hứng bất tận của các thi nhân. Từ đó có thể thấy hoàn cảnh ngắm trăng của Bác khá đặc biệt, không được tự do, thoải mái. Tuy nhiên, hình ảnh vầng trăng đã xua đi mọi khó khăn đó. Ánh sáng của vầng trăng đối lập hoàn toàn với góc tối nơi ngục tù. Đó chính là ánh sáng duy nhất của người chiến sĩ cách mạng nên “khó hững hờ”.

Hai câu thơ kết, tác giả cho người đọc thấy rõ sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người.

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Tuy có sự đối lập những khi tất cả hòa vào làm một lại tạo nên một bức tranh rất đỗi trữ tình và lãng mạn. Hình ảnh thi nhân được khắc họa nổi bật ở khía cạnh người chiến sĩ không chút vướng bận, khổ đau trước sự gò bó, thiếu thốn nơi nhà tù. Trước hoàn cảnh đó, Bác đã quên đi thế giới hữu hình xung quanh mình để thưởng nguyệt và vẫn giữ một phong thái ung dung, lạc quan, tự tại.

Biện pháp nhân hóa được sử dụng “Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”, vầng trăng trở nên tuyệt đẹp và thật có hồn. Ánh trăng “nhòm” qua khung cửa sổ nhà tù tối tăm với những khung sắt han gỉ để trở thành tri âm, tri kỉ của người tù binh, người chiến sĩ cách mạng.

Ngắm trăng chính xác là một bài thơ tiêu biểu trong tập Nhật kí trong tù. Đúng như nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nói: “Thơ Bác đầy trăng”. Trăng hay thiên nhiên nói chung chính là nguồn cảm hứng vô tận trong thơ Bác.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 9

Sinh thời, Bác Hồ luôn chú tâm chăm lo cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, Người không có ham muốn trở thành một nhà thơ nhưng như đã có lần Bác viết:

"Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng ngồi trong ngục biết làm sao đây?"

Hoàn cảnh "rỗi rãi" khiến Người đến với thơ ca như một kì duyên. Trong những năm tháng bị giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch, Bác đã có một bài thơ thật hay: "Vọng nguyệt".

"Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia"

Bài thơ được dịch là "Ngắm trăng":

"Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ"

Thi đề của bài thơ là "Vọng nguyệt" - "Ngắm trăng". Người xưa ngắm trăng trên những lầu vọng nguyệt, những vườn hoa với bạn hiền, túi thơ, chén rượu.. Nhưng nay, Bác ngắm trăng trong hoàn cảnh thật đặc biệt:

"Trong tù không rượu cũng không hoa"

Câu thơ hé mở bao điều bất ngờ. Người ngắm trăng là một người tù không có tự do "trong tù". Trong hoàn cảnh ấy, con người thường chỉ quay quắt với cái đói, cái đau và sự hận thù. Nhưng Hồ Chí Minh với tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết, Người lại hướng đến ánh trăng trong sáng, dịu hiền. Chẳng những vậy, chốn ngục tù tăm tối ấy "không rượu cũng không hoa". Từ "diệc" trong nguyên văn chữ Hán (nghĩa là "cũng") nhấn mạnh những thiếu thốn, khó khăn trong điều kiện "ngắm trăng"của Bác.

Không tự do, không rượu, không hoa nhưng "Đối thử lương tiêu nại nhược hà?" - Đối diện với ánh trăng sáng ta biết làm sao đây? Nguyên văn chữ Hán là một câu hỏi đầy bối rối, đầy băn khoăn của tâm hồn thi nhân trước vẻ đẹp trong sáng, tròn đầy của ánh trăng. Không có những điều kiện vật chất tối thiểu, không có cả tự do nhưng ở Hồ Chí Minh đã có một cuộc "vượt ngục tinh thần" vô cùng độc đáo như Bác đã từng tâm sự:

"Thân thể ở trong lao
Tinh thần ở ngoài lao"

Thể xác bị giam cầm nhưng tâm hồn Bác vẫn bay bổng với thiên nhiên. Điều đó được lí giải bởi tình yêu của Bác đối với thiên nhiên và còn bởi một tinh thần "thép" không bị khuất phục bởi cái xấu, cái ác. Trăng trong sáng, lòng người cũng trong sáng nên giữa trăng và người đã có sự giao hòa tuyệt vời:

"Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia"

Bản dịch thơ:

"Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ"

Trong bản nguyên tác chữ Hán, nhà thơ sử dụng phép đối giữa hai câu thơ "nhân" - "nguyệt", "hướng" - "tòng", "song tiền" - "song khích", "minh nguyệt" - "thi gia". Điều đó thể hiện sự đồng điệu, giao hòa giữa người và trăng để trăng và người giống như đôi bạn tri âm tri kỉ. "Nhân" đã chẳng quản ngại cảnh lao tù mà "hướng song tiền khán minh nguyệt". Trong tiếng Hán, "khán" có nghĩa là xem, là thưởng thức. Đáp lại tấm lòng của người tù - thi nhân, vầng trăng cũng "tòng song khích khán thi gia". Trong tiếng Hán, "tòng" là theo; trăng theo song cửa mà vào nhà lao "khán" thi gia. Đó là một cảm nhận vô cùng độc đáo. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của vũ trụ, là niềm khát vọng muôn đời của các thi nhân. Vậy mà nay, trăng lên mình qua song cửa hẹp, đặt chân vào chốn lao tù ẩm ướt hôi hám để chiêm ngưỡng nhà thơ hay chính là tâm hồn nhà thơ vậy. Điều đó đã khẳng định vẻ đẹp trong con người Hồ Chí Minh.

"Vọng nguyệt" ra đời trong những năm 1942 - 1943 khi Bác Hồ bị giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Bài thơ thể hiện phong thái ung dung, coi thường hiểm nguy gian khổ của Bác. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào, Người cũng hướng đến thiên nhiên bộc lộ tấm lòng ưu ái rộng mở với thiên nhiên. Đó là một trong những biểu hiện quan trọng của tinh thần thép Hồ Chí Minh.

"Vọng nguyệt" không chỉ là một bài thơ tả cảnh đơn thuần. Thi phẩm còn là một bức tranh chân dung tinh thần tự họa của Hồ Chí Minh. Và như thế, bài thơ thực sự là một thi phẩm đáng trân trọng trong kho tàng thi ca Việt Nam.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 10

Lòng yêu trăng tha thiết và bản lĩnh thép của người cộng sản đã tạo nên cuộc vượt ngục tinh thần kì thú. Sự hòa quyện chất tình và chất thép, cùng với nghệ thuật đối ý và nhân hóa đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.

Ngắm trăng mở đầu bằng chút bối rối của người tù - thi sĩ trước cảnh trăng đẹp. Bởi đây là cảnh ngắm trăng đặc biệt - ngắm trăng trong tù. Trong tù không rượu, không hoa là chuyện dĩ nhiên, Người thừa hiểu đó nhưng vẫn nhắc đến với hai lần nhấn mạnh từ vô (không) như lời tạ lỗi cùng trăng - người bạn tri âm, tri kỉ. Đó là chút bối rối rất nghệ sĩ. Bởi chỉ có những nghệ sĩ chân chính mới biết yêu thương sâu sắc và xúc cảm tinh tế trước vẻ đẹp thiên nhiên.

Với bài thơ này, bên cạnh cái hiện thực trơ trụi của nhà tù thì niềm băn khoăn nghệ sĩ ấy càng bộc lộ bản lĩnh vững vàng của người tù, bất chấp và vượt lên hoàn cảnh thực tại để giữ nguyên vẹn tâm hồn nhạy cảm, luôn biết yêu quý, rung động trước cái đẹp thiên nhiên và cuộc sống.

Sau phút băn khoăn, bối rối là phút giao cảm tuyệt đẹp giữa người và trăng, thi nhân và bạn tâm tình.

Đây là mối giao hòa thầm lặng mà tha thiết, sâu lắng. Chẳng có gì, chỉ có tấm lòng đôi bạn tâm giao thu vào một chữ khán (ngắm). Hai câu có sử dụng phép đối trong luật thơ Đường. Nhân hướng - nguyệt tòng; minh nguyệt - thi gia (câu trên và câu dưới).

Lại đối ở chữ đầu và cuối mỗi câu thơ: nhăn - nguyệt; nguyệt - thi gia. Thể hiện sự quấn quýt, tâm giao giữa người và trăng. Hình thức và cấu trúc câu thơ làm rõ cảnh ngắm trăng trong tù: hai câu đầu là người và trăng, chen vào giữa sừng sững những chiếc chấn song sắt của nhà tù ngăn cách thô bạo. Nhưng bất chấp cái chấn song sắt lạnh lùng, ghê tởm kia, người vẫn đến với trăng, vẫn say đắm ngắm trăng và trăng cũng đến với người say sưa ngắm người. Câu thơ có sự phá cách của luật đối thơ Đường: song - song, khán - khán. Hai chữ song - song như bức tường nhà tù dựng lên ngăn cách người và trăng thì lập tức đã có khán - khán chọi lại. Đó là chiến thắng của tình người, lòng yêu thiên nhiên, yêu trăng tha thiết của Bác. Phút giao cảm thăng hoa kì diệu đã xảy ra. Hình như ngục tù phút chốc biến mất, chấn song sắt lạnh biến mất, chỉ còn thi nhân và vầng trăng tri âm. Hoàn cảnh là trói buộc, giam cầm, nhưng sức sống con người là vô hạn. Và nơi tù ngục, với Hồ Chí Minh, hướng đến trăng sáng (minh nguyệt) chính là hướng tới tự do - khao khát cháy bỏng của Người:

Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do....

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 11

“Thơ Bác tràn đầy ánh trăng” - câu nói này quả thật không sai. Bác đã ngắm trăng và viết nhiều bài thơ trăng. Bác có biết bao vần thơ đặc sắc nói về trăng và niềm vui ngắm trăng, tập thơ của Bác tràn ánh trăng: "trăng lồng cổ thụ", “Trăng vào cửa sổ đòi thơ”, “Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Trăng xuất hiện nhiều trong thơ Bác vì Bác là một nhà thơ giàu tình yêu thiên nhiên, vì Bác là một chiến sĩ giàu tình yêu đất nước quê hương. Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc với những bài thơ trăng của mình. Trong số đó, bài “Ngắm trăng” là bài thơ tuyệt tác, mang phong vị Đường thi. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết của Người :

Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Cảm hứng thơ ca được bắt nguồn từ rượu và hoa. Thi nhân gặp cảnh trăng đẹp, thường ngồi thưởng thức rượu và hoa. Nhưng nhà thơ ở trong tù làm sao có rượu và hoa để thưởng thức. Chỉ có nhà thơ và trăng, một người một cảnh ngắm nhau, tạo nên vẻ đẹp nên thơ, hữu tình. Với lòng yêu thiên nhiên tha thiết, với phong thái ung dung, mặc dù không rượu không hoa và cảnh tù ngục khắc nghiệt, người tù vẫn thả hồn tự do, ung dung tận hưởng vẻ đẹp của trăng. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu cũng không hoa” thế mà Bác vẫn thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động trước vầng trăng xuất hiện trước cửa ngục đêm nay. Người vẫn có sự rung động mãnh liệt trước đêm trăng. Đêm trăng đẹp như vậy, với Bác thật là "khó hững hờ". Một niềm vui chợt đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hẳn rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối trước trăng, một cảm xúc rạo rực xao xuyến.

Sang 2 câu thơ tiếp theo, nhà thơ vẽ ra trước mắt ta bức tranh về 2 người bạn tri âm đang trò chuyện với nhau: Người tù và Trăng. Mặc dù giữa Bác và trăng có sự ngăn cách bởi bức tường của nhà lao, hiểu theo nghĩa ẩn dụ, đó là sự ngăn cách tàn bạo và lạnh lùng của chế độ áp bức bóc lột với người tù Cách mạng. Nhưng cũng nhờ đó, cho thấy tình yêu thiên nhiên đến say đắm và phong thái ung dung của Bác Hồ. Qua song sắt nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng, với một tâm thế “vượt ngục” đích thực? Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm thư thái.

Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng! Người tù là một thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần ở ngoài lao”. Bác yêu trăng và đối diện đàm tâm với trăng. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và con người xuất hiện một sự hóa thân kỳ diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia. Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó biểu hiện một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư thế ấy chính là phong thái ung dung, tự tại, lạc quan yêu đời, yêu tự do.Trong gian khổ tù đày, tâm hồn Bác vẫn có những giây phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng, thưởng trăng. Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như Bác: Bác yêu thiên nhiên, giao hòa với thiên nhiên, ở Bác là kết tinh của tâm hồn chiến sĩ và thi sĩ.

Ngắm trăng là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài thơ không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên vừa cho thấy sức mạnh tinh thần to lớn của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại. Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Bài thơ thật là một kiệt tác vĩ đại của bậc vĩ nhân.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 12

Nhớ đến Bác Hồ chúng ta không chỉ nhớ đến một vị lãnh tụ dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng mà chúng ta còn nhớ đến phong thái ung dung, lạc quan của Người. Điều ấy được thể hiện qua một loạt các sáng tác của Bác, nhất là ở tập "Nhật kí trong tù", tiêu biểu là bài thơ "Ngắm trăng" được Bác viết vào tháng 8 năm 1942:

"Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ".

Trong suốt thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, bị giải đi gần ba mươi nhà giam của tỉnh Quảng Tây, Bác đã viết tập thơ "Nhật kí trong tù" với mục đích "ngâm ngợi cho khuây". Có lẽ trong hoàn cảnh bị giam giữ khổ cực như vậy ít ai có hứng thú làm thơ. Nhưng với Bác thì khác, một con người yêu thiên nhiên không thể quay lưng lại với cái đẹp. Chẳng vậy mà Người đã viết:

"Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ";

Hình ảnh người nghệ sĩ hiện lên thật rõ nét với tình yêu trăng, yêu thiên nhiên và tình yêu cái đẹp sâu sắc. Nói cách khác, hình ảnh Bác Hồ hiện lên qua bài thơ đầy chất thi sĩ, lãng mạn. Dù cho hoàn cảnh của thực tại có thiếu thốn, tù túng đến đâu đi chăng nữa thì Bác vẫn hướng ra vẻ đẹp của ngoại cảnh. Hoa cũng là biểu tượng của cái đẹp và thiếu sự góp mặt của cái đẹp kiêu sa, trang trọng ấy trong buổi ngắm trăng quả là một sự thiếu hụt lớn. Hoa và rượu sẽ giúp cho buổi ngắm trăng thêm thi vị nhưng với Bác, được tận hưởng vẻ đẹp của trăng cũng đã là một điều quý giá. Hơn nữa, giữa chốn ngục tù với thân phận một kẻ bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam phải chịu nhiều khổ cực thì làm sao có thể có được những thứ đó?

Nếu không phải con người yêu thiên nhiên thì Bác đã "hững hờ" và không quan tâm đến ngoại cảnh. Nhưng Bác lại là người "Yêu từng ngọn lúa mỗi nhành hoa" (Tố Hữu) nên trước cảnh đẹp Bác mang tâm trạng bối rối, chưa biết đón tiếp trăng như thế nào. Vì sao Người lại rơi vào tình trạng khó xử như vậy? Người xưa thường ngắm trăng trong một không gian thoáng đãng tạo sự thư thái, có rượu, có hoa để thêm phần thi vị. Còn Bác Hồ ngắm trăng trong hoàn cảnh không được tự do, Bác ngắm trăng trong tù ngục tăm tối không có hương hoa thơm ngát cũng không có men rượu say nồng. Xiềng xích hay dây trói cũng chỉ giam cầm được thân thể Bác mà không thể nào giam cầm được tinh thần người chiến sĩ cách mạng của dân tộc.

Làm sao Bác có thể thờ ơ được với người bạn tri kỷ này đây? Vượt lên mọi sự thiếu thốn về vật chất, Bác đã thưởng ngoạn ánh trăng bằng tất cả những gì mình có. Đó là phong thái ung dung, sự lạc quan, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng của nước nhà:

"Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ".

Chúng ta không chỉ thấy được hình ảnh Bác Hồ với tình yêu thiên nhiên sâu sắc mà còn thấy được hình ảnh một người chiến sĩ cách mạng vượt lên trên bao gông cùm, xiềng xích, dây trói để hòa mình vào thiên nhiên, ánh trăng. Bác hướng đến ánh trăng cũng là hướng đến ánh sáng của tự do, của lí tưởng cộng sản. Bài thơ của Người còn thể hiện một tinh thần "thép" trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ và khắc nghiệt. Chính tình yêu thiên nhiên đã làm nên chất "thép" ngời sáng có sức mạnh chiến thắng mọi nghịch cảnh của Bác. Chất "thép" trong thơ Bác còn là tinh thần chiến đấu vì Tổ quốc, nhân dân. Nó còn là sự lạc quan, tin tưởng vào tương lai cách mạng, vào con đường giải phóng dân tộc. Tinh thần ấy cũng được Bác thể hiện trong bài thơ "Tự khuyên mình":

"Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân.
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện, tinh thần thêm hăng".

Mặc dù bị ngăn cách bởi những song sắt của nhà tù nhưng người và trăng vẫn hướng đến nhau, vượt qua mọi khoảng cách và rào cản để cùng đồng điệu. Trăng đã "nhòm" tận vào khe cửa để "ngắm nhà thơ" thì hà cớ gì người nghệ sĩ lại từ chối khoảnh khắc đó. Ánh trăng soi chiếu cả không gian, ánh sáng ấy còn tượng trưng cho ánh sáng cách mạng đưa dân tộc ta thoát khỏi kiếp nô lệ lầm than. Sự đăng đối của hai hình ảnh người và trăng cùng biện pháp nhân hóa "trăng - nhòm khe cửa - ngắm nhà thơ" đã góp phần tạo nên sự thành công trong việc khắc họa hình ảnh Bác Hồ. Màu sắc cổ điển kết hợp với màu sắc hiện đại đã tạo nên một phong cách thơ độc đáo. Bài thơ có cách kết thúc đầy bất ngờ nhưng lại hết sức hợp lí. Mở đầu bài thơ là từ "ngục trung" và kết thúc bài thơ là từ "thi gia" đã giúp người đọc thấy được hình ảnh của Bác vượt lên trên hoàn cảnh để có được phong thái ung dung, thư thái ngắm trăng và ẩn đằng sau tình yêu thiên nhiên ấy là một tinh thần "thép" rất đáng trân trọng.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 13

Với bài thơ Ngắm trăng, Hồ Chí Minh đã thể hiện tình yêu say đắm với ánh trăng trong đêm vắng dù Người đang trong hoàn cảnh lao tù tăm tối, cực khổ Từ bao đời nay, trăng đến với nhà thơ như một người bạn tâm giao, cùng sẻ chia bao nỗi niềm khó nói của thi nhân. Bài thơ mở ra với không gian chật hẹp, tù túng là nhà tù – nơi giam cầm những chiến sĩ cách mạng yêu nước.

Bằng biện pháp liệt kê, Người đã khắc họa cuộc sống thiếu thốn nơi đây: không rượu, không hoa. Hoa là biểu tượng của cái đẹp, rượu là chất men say ru hồn ta trong đêm khuya yên tĩnh. Thiếu sự góp mặt của cái đẹp kiêu sa, trang trọng ấy trong buổi ngắm trăng quả là một sự thiếu hụt lớn.

Nhưng với Bác, được tận hưởng vẻ đẹp của trăng đêm nay cũng đã là một điều quý giá. Câu thơ cho thấy tinh thần lạc quan, dù đang đối mặt với hiểm nguy nhưng tâm hồn Bác vẫn say sưa với cái đẹp, hướng thân thể ra ngoài lao với ánh trắng tự do trên bầu trời cao rộng. Vượt lên sự thiếu thốn về vật chất, Bác đã thưởng ngoạn ánh trăng bằng một phong thái ung dung đón nhận và sự lạc quan, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Trăng và Người ở tư thế đối diện: người ngắm trăng, trăng “nhòm” khe cửa, tuy hai mà một. Ánh trăng phải “nhòm” qua song sắt chật hẹp để ngắm được rõ nét hơn khuôn mặt thi sĩ, để đồng cảm, sẻ chia với hoàn cảnh khó khăn hiện tại của người chiến sĩ. Người đã vượt lên trên bao gông cùm, xiềng xích, dây trói để hòa mình vào thiên nhiên. Trăng không còn là vật vô trí mà như hóa thân, có tâm hồn và tình yêu như con người.

Bác hướng đến ánh trăng cũng là hướng đến ánh sáng của tự do, của lí tưởng cộng sản. Bài thơ không chỉ thể hiện tình yêu, lòng say đắm thiên nhiên mà còn thể hiện một tinh thần “thép” trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ. Như vậy, song sắt và xiềng xích nhà tù chỉ có thể giam cầm thân thể chứ không thể ngăn cấm được tâm hồn và lí tưởng cộng sản bừng cháy trong con người ấy.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 14

Trăng từ lâu đã trở thành một thứ ánh sáng vô cùng linh lung huyền ảo mà quen thuộc trong thi ca. Dường thi thi sĩ nào cũng yêu thích người bạn trăng của mình mà “phát lời” ra ngôn ngữ những bóng trăng đổ tràn trên trang giấy. Có lẽ cũng xuất phát từ một tâm hồn yêu trăng như thế mà ngay trong cảnh ngục tù tối tăm, Bác vẫn có những vần thơ về trăng thật sinh động, dạt dào.

Chân dung của Bác hiện lên với một hoàn cảnh không hề thơ mộng:

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?

(Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ)

Câu thơ mở đầu là sự diễn tả hoàn cảnh mà Bác đang mang, đó là trong ngục, mà trong ngục tối thì “không rượu, không hoa”. Câu thơ hiển nhiên được nói với một ngữ điệu thản nhiên như không. Trong tù, điều kiện không có, đến nước cũng phải thay phiên để uống hay rửa mặt thì làm sao lại có thể có rượu, có hoa. Thế nhưng khi “đối” diện với cảnh đẹp thiên nhiên thì “khó hững hờ”. Có lẽ rằng những thiếu thốn về mặt vật chất trong tù không làm cho tâm trạng trước cảnh đẹp thiên nhiên của người tù giảm đi hay cảnh thiên nhiên đêm ấy đẹp tới mức những thiếu thốn kia bị lu mờ cả? Thiên nhiên tươi sáng mời gọi con người cùng chung vui khiến cho không một tâm hồn nào có thể “hững hờ” với nó đặc biệt, Bác có một tâm hồn thi sĩ vô cùng nhạy cảm lại càng không thể cảm thấy rạo rực hứng cảm trước một cảnh đêm đẹp. Và ta có chút tò mò rằng vì đâu mà đêm ấy có vẻ đẹp mê hồn đến vậy, thì ra là do có sự xuất hiện của vầng trăng:

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ)

Khi xưa, các tao nhân mặc khách có thú vui tao nhã là uống rượu, thưởng nguyệt, làm thơ. Bác lúc này với hoàn cảnh không có rượu nhưng vẫn thưởng nguyệt, làm thơ hết sức say sưa. Hai câu thơ cuối tạo sự đăng đối cho ý thơ. Người thì từ trong nhà lao tăm tối, “hướng” đôi mắt cùng tâm hồn dễ rung cảm của mình lên bầu trời cao rộng bên ngoài qua khung cửa sắt nhỏ để ngắm vẻ đẹp của ánh sáng vầng trăng, còn vầng trăng thì được nhân hóa như một con người biết suy nghĩ, biết ghé vào song sắt để ngắm nhìn thi gia. Đến đây ta có cảm giác trăng và người tuy hai mà một, như những người bạn tri âm tri kỉ tuy có khoảng cách về địa lí nhưng tâm hồn họ lại có thể tìm đến với nhau dễ dàng. Song sắt nhà tù kia chẳng qua chỉ có thể giam giữ, tách biệt thân thể Người với thế giới bên ngoài bằng hình thức chứ không thể giam giữ được tâm hồn Người. Tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng vẫn tràn đầy niềm tin yêu vào cuộc sống, có lẽ chính vì niềm tin yêu ấy mà đến ánh trăng cũng muốn tìm đến soi rọi vào góc tối tăm của nhà tù để ở đó, sáng ngời lên hình ảnh của một thi nhân chân chính. Khi này, Người không phải là một tù nhân nữa mà trở thành “thi gia”. Bài thơ chính là vẻ đẹp của một tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu trăng, một tâm hồn thi gia vô cùng tinh tế, nhạy cảm.

Thơ điệu hồn của cảm xúc, là tiếng nói của tâm hồn, bài thơ là sự phản ánh rõ nét tâm hồn Bác với sự lạc quan, yêu đời, yêu thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên và đặc biệt là với trăng.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 15

Ngắm trăng là bài thơ được trích trong tập Nhật kí trong tù, đây là thời gian bác ngồi trong tù và sáng tác nên những vần thơ rất hay.

Bài thơ được Bác viết trong một đêm trăng đẹp, nhìn qua khe cửa sổ thưởng thức một đêm trắng với khung cảnh trong tù nhưng vẫn ung dung, tự tại.

Qua bài thơ vẻ đẹp tâm hồn của Bác được thể hiện rất rõ nét:

Vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn trong ngục tù Bác vẫn thể hiện tình yêu thiên nhiên, thể hiện tâm hồn lãng mạn, bay bổng, thưởng thức một đêm trăng đẹp đúng nghĩa. Điều đó thể hiện tâm hồn cao đẹp, giao hòa cùng thiên nhiên của một người nghệ sĩ chân chính.

Bài thơ ngắm trăng cũng nói lên tinh thần thép của Bác, vượt qua mọi gian khổ khó khăn bị giam cầm trong ngục tù nhưng Bác vẫn yêu và hướng đến cái đẹp, hướng đến bầu trời tự do nơi có những ánh sáng lung linh của đêm trăng đẹp. Đó cũng là tinh thần vượt lên mọi khó khăn vươn đến những điều tốt đẹp hơn của những người chiến sĩ cách mạng kiên cường, không khuất phục số phận.

Bài thơ Ngắm trăng được viết trong hoàn cảnh không như những bài thơ ngắm trăng thông thường khi Bác đang ở hoàn cảnh ngặt nghèo của xiềng xích kẻ thù giam cầm. So với bài thơ “Rằm tháng giêng” hay là “Tin thắng trận” hoàn cảnh sáng tác và thưởng thức đêm trăng có khác nhau nhưng đều toát lên vẻ đẹp của tâm hồn Bác, đó là vẻ đẹp chung của những người chiến sĩ cách mạng.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 16

Bài thơ “Ngắm trăng” được trích trong tập “Nhật kí trong tù”. Tập thơ được viết trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, khi Bác Hồ từ Pác Bó bí mật lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam. Đến thị trấn Túc Vinh, Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, bị đày đọa hơn một năm trời mới được thả tự do. Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh, vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên vừa chứng minh cho tinh thần lạc quan yêu đời của Bác trong hoàn cảnh tù đày.

Đọc bài thơ, ta không khỏi cảm phục tinh thần và ý chí nghị lực của Bác trong hoàn cảnh khắc nghiệt gian khó. Chốn lao tù ngỡ chỉ có tối tăm và lạnh lẽo, vậy mà tâm hồn Bác vẫn vượt lên trên những thứ đen tối đó để hướng ra ngoài, đến một thế giới tươi đẹp có thiên nhiên bầu bạn:

“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?”

(Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ)

Câu thơ mở ra một hoàn cảnh khắc nghiệt: trong tù không có rượu cũng chẳng có hoa. Điệp từ “vô” (không) lặp lại hai lần càng nhấn mạnh cái hiện thực nghiệt ngã ấy. Uống rượu và thưởng hoa vốn là hai thú vui tao nhã của thi nhân xưa, cũng là chất xúc tác tạo cảm hứng để thi sĩ sáng tác nên những áng thơ trữ tình. Trái ngược với thực tế trốn nhà lao, câu thơ thứ hai vang lên đầy bất ngờ:

“Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.

Theo câu thơ chữ Hán, ba chữ “nại nhược hà”- biết làm sao đây vang lên chất chứa bao băn khoăn và nỗi niềm tâm sự. Bác đối diện với trăng khi không có rượu cũng chẳng có hoa, chỉ có một tâm hồn cao đẹp đang bị kìm hãm tự do sau song sắt nhà tù. Thế nhưng, điều đó không ảnh hưởng đến việc Bác tìm đến thiên nhiên tươi đẹp, hòa mình vào với thiên nhiên đất trời. Vượt lên trên tất cả, Bác đã có một cuộc vượt ngục bằng tinh thần đầy độc đáo: “Thân thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao”.

Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ làm sáng lên phẩm chất của người tù cách mạng: mặc cho hoàn cảnh hiện tại khắc nghiệt gian khổ, Bác vẫn ung dung, tự tại, lạc quan, yêu đời:

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.”

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.)

Bác lặng lẽ ngắm vầng trăng qua song sắt của nhà giam. Bức tường nhà lao chật hẹp không thể ngăn cản tâm hồn lãng mạn của Bác tìm đến với vầng trăng xinh đẹp, gửi theo đó khát vọng tự do. Và như để lại tấm chân tình của Bác, vầng trăng đáp lại bằng cách “khán thi gia” qua khung cửa sổ nhỏ. Trăng và Bác đã thực sự trở thành tri âm tri kỉ. Thi sĩ đã không còn lẻ loi giữa đêm khuya thanh vắng ở chốn lao tù lạnh lẽo. Tâm hồn lãng mạng và phong thái ung dung, tinh thần lạc quan ấy cũng thể hiện chất thép trong thơ Hồ Chí Minh: không bao giờ khuất phục thực tại mà luôn tìm cách vượt lên trên thực tại. Đó là vẻ đẹp của một tâm hồn, một nhân cách lớn vừa có sự tài hoa lãng mạn của thi sĩ, vừa có cái phi thường của người chí sĩ cách mạng.

Vẻ đẹp tâm hồn của Bác dù ở trong hoàn cảnh nào cũng ngời sáng lên những phẩm chất cao cả của một con người vĩ đại. Chính tâm hồn lãng mạn cùng tinh thần lạc quan đã tạo nên sức mạnh giúp Bác vượt qua hết khó khăn này đến khó khăn khác, giữ vững niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam.

Tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Ngắm trăng - mẫu 17

Hồ Chí Minh là một lãnh tụ cách mạng, một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Trong những di sản mà Người để lại cho đời thì thi ca chiếm vị trí quan trọng. Thơ Hồ Chí Minh thể hiện tình yêu đời, yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước thắm thiết, thể hiện một nghệ thuật thơ mang đậm màu sắc cổ điển và hiện đại. "Ngắm trăng" là bài thơ số 20, được rút ra trong tập "Nhật kí trong tù". Tác phẩm được viết theo thể thơ tứ tuyệt ngắn gọn, giản dị nhưng hàm súc, mở ra thế giới tâm hồn, tình cảm phong phú của Bác trong hoàn cảnh tối tăm gian khổ của ngục tù.

Tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) bí mật lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế cho cách mạng Việt Nam nhưng không ngờ đến Quảng Tây, Người bị chính quyền tàu Tưởng bắt giam vô cớ và giải qua 30 mươi nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, bị đày đọa trong hơn một năm trời. Người viết tập thơ "Nhật kí trong tù" để nhằm mục đích giải khuây nhưng qua tập thơ, người đọc vẫn thấy được chân dung tâm hồn con người Hồ Chí Minh - một tinh thần lạc quan, một phong thái ung dung thanh thản, một bản lĩnh thép cứng cỏi phi thường của người chiến sĩ cộng sản và một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm yêu thương con người, yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Bài thơ "Ngắm trăng" được Bác viết vào trong hoàn cảnh ngục tù nhưng trước vẻ đẹp của ánh trăng đêm, Bác đã thoát khỏi xiềng xích gông cùm của cảnh tù mà vượt ngục bằng tinh thần đến với thiên nhiên tự do mênh mông khoáng đạt. Có thể nói, bài thơ là minh chứng tiêu biểu cho tâm thế: "Thân thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao" của Người.

Trước hết hai câu thơ mở đầu là lời giới thiệu về hoàn cảnh trong chốn ngục tù và nỗi niềm băn khoăn mộng mơ của người nghệ sĩ:

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?

dịch thơ:

Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Điệp từ "vô" (không) được nhắc lại hai lần có tác dụng nhấn mạnh đến những cái không có đáng lẽ ra không thể thiếu trong lúc này: không rượu, không hoa. Và đối lập với cái không bên trên là "cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ". Câu hỏi tu từ ở câu thơ thứ hai "nại nhược hà?" (như thế nào) thể hiện sự băn khoăn, bồn chồn, bối rối của người nghệ sĩ khi đứng trước "cảnh đẹp": không có rượu, cũng chẳng có trăng để thưởng ngoạn trăng đêm cho trọn vẹn thì biết làm sao?. Sự tiếc nuối, băn khoăn là biểu hiện của một tấm lòng thành thực, của tâm hồn yêu thiên nhiên đắm say, ngây ngất và khát khao được đằm mình cùng với ánh trăng. Vượt thoát ra khỏi khuôn khổ câu chữ, câu thơ vừa cho thấy một tâm hồn nghệ sĩ của Hồ Chí Minh, lại vừa cho thấy một bản lĩnh thép của người chiến sĩ cộng sản. Dù đối diện với khó khăn, với gông cùm xiềng xích nơi ngục tù, Bác vẫn mở lòng ra mà đón nhận tất cả vẻ đẹp của thiên nhiên, của ánh trăng đêm nơi nhà giam lạnh lẽo.Lời thơ đã cho thấy một tâm hồn thanh cao, yêu cái đẹp vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã của người tù Hồ Chí Minh.

Và khi phải đứng trước cảnh đẹp mà không biết phải ứng xử làm sao vì thiếu thốn đủ điều, Bác đã tìm đến cách giải quyết hoàn cảnh đó thật khéo léo, chân tình: lấy tấm lòng để đáp lại tấm lòng, lấy tình yêu với trăng mà đối lại với vầng trăng - người bạn tri kỉ của mình. Đó là cách ứng xử đầy nghĩa tình, đầy lãng mạn, mộng mơ:

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Quả là một cuộc kì duyên hội ngộ!. Bất chấp cả không gian xung quanh, của chiếc "song sắt" chắn ngang trước mặt, người và trăng, trăng và người cứ hướng về nhau bằng một tấm lòng đối đãi người tri kỉ. Người thì hướng ra ngoài song để ngắm nhìn vẻ đẹp của trăng, còn trăng cũng vượt qua song sắt để đến bên người. Một không gian hoàn toàn tĩnh lặng trong những phút giây giao hòa mãnh liệt nồng nàn giữa người và trăng. Nghệ thuật nhân hóa ở câu thơ cuối đã làm cho vầng trăng trở nên có tâm hồn, có ánh mắt, có dáng hình cụ thể và cũng biết đồng cảm, sẻ chia để trở thành kẻ tâm giao, người tri kỉ, bạn bè của người tù. Thật là một khoảnh khắc lãng mạn, giàu chất thơ, chất họa, ánh trăng đã xóa tan đi cảnh ngục tù tăm tối, làm cho hồn người trở nên sáng trong, thanh bạch. Câu thơ dựng lên một bức tranh đêm với cảnh người tù ngắm trăng thật đẹp, thật ấm áp, tươi vui, thể hiện sự giao cảm đặc biệt của người với trăng.

"Ngắm trăng" mang đậm màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại. Màu sắc cổ điển được thể hiện ở đề tài (Vọng nguyệt), thi liệu (rượu, hoa, trăng), thể thơ tứ tuyệt, cấu trúc đăng đối (hai câu cuối). Còn vẻ đẹp hiện đại thể hiện ở tâm hồn lạc quan, luôn ngập tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống và bản lĩnh phi thường luôn hướng về ánh sáng của người chiến sĩ cộng sản...

Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt, chỉ có 28 chữ cái rất ngắn gọn, cô đúc nhưng đã khắc họa thành công một bức chân dung tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản: yêu thiên nhiên với tinh thần lạc quan, mạnh mẽ, vượt lên trên hoàn cảnh tù đầy khắc nghiệt. Đó là chất thép trong bài thơ hay chính là chất thép trong bản lĩnh nghị lực phi thường của người chiến sĩ vĩ đại - Hồ Chí Minh.

Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 10 hay khác: