Top 10 Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn
Haylamdo biên soạn và sưu tầm bài văn mẫu cực hay gồm 10 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài thi môn Ngữ văn. Mời các bạn theo dõi:
- Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn (mẫu 1)
- Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn (mẫu 2)
- Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn (mẫu 3)
- Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn (mẫu 4)
- Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn (mẫu 5)
- Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn (mẫu 6)
- Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn (mẫu 7)
- Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn (mẫu 8)
Top 10 mẫu Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn (Hay nhất)
Đề bài: Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) giới thiệu bài thơ đó.
Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn - mẫu 1
Thủ vĩ ngâm
Góc thành Nam, lều một gian,
No nước uống, thiếu cơm ăn.
Con đòi trốn, dường ai quyến,
Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá,
Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn.
Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải,
Góc thành Nam, lều một gian.
Bài thơ này có thể là làm trong lúc Nguyễn Trãi bị giam lỏng ở Đông Quan theo bài tựa của Nguyễn Khắc Kiệm hay là trong lúc ông bị Lê Thái Tổ ruồng bỏ sau khi bị giam vì bị nghi có liên quan với án Trần Nguyên Hãn, tuy được tha và vẫn giữ chức quan, nhưng không được làm việc gì. Chúng tôi (nhóm Đào Duy Anh) đoán là làm trong trường hợp thứ hai, vì trong thơ đã có vẻ chán chường lắm, không thể là giọng thơ của một người thanh niên 30 tuổi còn đầy tráng khí (lúc bị giam lỏng ở Đông Quan) mới gặp khó khăn nhất thời. Vả chăng nếu là bị giam ở Đông Quan thì không thể có câu “Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải”.
Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn - mẫu 2
QUAN HẢI
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,
Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên.
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ,
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỉ thiên niên.
Kiền khôn kim cổ vô cùng y,
Khước tại Thương Lang viễn thụ yên.
Dịch nghĩa
Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
Xích sắt cũng được trầm dưới nước để phong toả như thế
Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nước
Cậy vào địa thế hiểm trở cũng khó bằng mệnh trời
Họa phúc đều có duyên do, đâu phải chỉ một ngày
Anh hùng để lại mối hận nghìn năm
Xưa nay ý trời đất thì vô cùng tận
Lui về chốn cây cỏ mây trời ở đất Thương Lang xa xôi.
Quan Hải là một bài thơ đặc sắc của Nguyễn Trãi. Bài thơ được ông sáng tác vào thời điểm sau chiến thắng chống quân Minh xâm lược. Thể hiện sự suy tư về lẽ hưng vong của triều đại nhà Hồ ngắn ngủi, đồng thời cảm thán về nỗi đau uất hận của anh hùng thất thế. Đây chính là một bài thơ mang đậm ý nghĩa về lòng dân, có dân thì mọi chuyện tất thành. Bài thơ đầy ắp tâm trạng và vô cùng sâu sắc.
Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn - mẫu 3
Ba tiêu (cây chuối)
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,
Ðầy buồng lạ, màu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu, gượng mở xem.
Cây chuối là một loại cây dân dã bình dị, nhưng đã được Nguyễn Trãi thổi vào đó một linh hồn để thể hiện một cảm xúc sâu sắc, kín đáo về một tâm hồn cháy bỏng. Điều này cũng là một điều thật bình thường, bởi vì Nguyễn Trãi là một vị tướng nhưng ông cũng là một con người bằng xương bằng thịt, một người thường với những cảm xúc dào dạt, cũng không tránh khỏi sự e ấp, ngại ngùng khi nhắc đến tình cảm riêng, và đặc biệt lại là tình yêu trong thời phong kiến đầy khuôn sáo nên sự thể hiện càng kín đáo. Nguyễn Trãi không những là nhân chứng của những biến động bão táp mà ông còn là người tướng trực tiếp tham gia vào những biến động ấy. Và ngay cả cuộc đời ông cũng là một cuộc đời đầy biến cố thăng trầm. Chính thế mà thơ ông thể hiện những vốn sống, những suy nghĩ sâu sắc với tình yêu thiên nhiên, con người đầy hồn hậu.
Cây chuối đón xuân đến để thêm tươi tốt, thêm ngát hương, ngoài việc mượn hình ảnh cây chuối để thể hiện một tình yêu tuổi trẻ mãnh liệt, Nguyễn Trãi còn gửi vào đây một nổi niềm, một tấm lòng sâu lắng trước thời cuộc. Trong lúc rời triều đình về quê ở ẩn, lòng ông không lúc nào yên, cứ nao nao “đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông” ông chỉ mong được lệnh vua cho vời về kinh. Cây chuối đang đón đợi xuân hay chính bản thân ông đợi xuân. Với Nguyễn Trãi mùa xuân của ông là chính là tin vui từ nhà vua truyền về kinh được thoả lòng dũng tướng. Một tâm hồn cao cả, suốt cuộc đời vì dân vì nước, luôn trăn trở suy tư trước thời cuộc. Trong đời tư ông luôn giữ nếp sống giản dị, trong sạch, một đời thanh cao. Ông như một tấm gương chói ngời về sự ngiệp, tài năng và đức độ.Bài thơ có một giá trị đáng quý, nói tới bài thơ Cây chuối ta sẽ nhớ ngay một ý xuân tình e ấp, một tâm hồn cuộn sóng vì dân, vì mệnh nước. Qua đó ta thấy rõ phần tâm hồn phong phú và nghệ thuật tài hoa của Nguyễn Trãi.
Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn - mẫu 4
Thính Vũ
Tịch mịch u trai lý
Chung tiêu thính vũ thanh
Tiêu tao kinh khách chẩm
Điểm trích sổ tàn canh
Cách trúc xao song mật
Hòa chung nhập mộng thanh
Ngâm dư hồn bất mị
Đoạn tục đáo thiên minh.
Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa:
Nghe Mưa
Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách,
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ,
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được,
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.
“Thính vũ” là một bài thơ chữ Hán đầy tình cảm bộc lộ tâm tư của tác giả bắt đầu là cảnh trời mưa, trong gian phòng u tối tịch mịch, thi nhân là khách trọ đã thức thâu đêm một mình trong căn phòng vắng vẻ u tối nghe tiếng mưa rơi tâm trạng bồn chồn, như chưa thực hiện một hoài bão lớn, một trách nhiệm nam nhi nợ nước thù nhà, tiếng trúc khua tiếng chuông chùa hoà âm điệu làm cho nỗi buồn càng chất ngất thức thâu đêm, ngoài trời mưa rỉ rả lúc to lúc nhỏ, ngâm thơ vẫn không sao ngủ được đến sớm mai. Dưới đây là bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Trãi.
Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn - mẫu 5
- Sưu tầm:
Bài thơ: Mộ xuân tức sự
Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
Ðỗ Vũ thanh trung xuân hướng lão,
Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai.
(Bản dịch của Khương Hữu Dụng:
Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn
Khách tục không ai bén mảng gần
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Ðầy sân mưa bụi nở hoa xoan.)
- Giới thiệu:
Bài thơ “Mộ xuân tức sự” là một bài thơ chữ Hán đặc sắc của Nguyễn Trãi, được viết khi ông lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Bài thơ phác họa không gian cuối ngày xuân bên ngoài phòng văn của tác giả, thể hiện tâm hồn rộng mở, giao hòa với thiên nhiên, lắng nghe tiếng cuốc kêu và trông cánh hoa xoan nở đầy sân giữa làn mưa bụi. Không chỉ phơi phới tình yêu, niềm say mê với thiên nhiên, bài thơ còn gửi gắm nỗi niềm ưu quốc của Nguyễn Trãi. Tiếng cuốc kêu không chỉ gợi nhắc thời khắc cuối xuân đầu hạ, mà còn gợi đến vận nước đang khó khăn. Nhưng bài thơ không nặng nề, bi quan, mà vẫn thể hiện niềm tin và hy vọng của tác giả, thông qua hình ảnh hoa xoan vẫn nở bừng.
Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn - mẫu 6
- Bài thơ: Mộ xuân tức sự
Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai.
Ðỗ Vũ thanh trung xuân hướng lão,
Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai.
(Bản dịch của Khương Hữu Dụng:
Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn
Khách tục không ai bén mảng gần
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn
Ðầy sân mưa bụi nở hoa xoan.)
Giới thiệu bài thơi bằng một đoạn văn:
Bài thơ “Mộ xuân tức sự” là một bài thơ chữ Hán đặc sắc của tác giả Nguyễn Trãi. Nó được viết khi ông lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Bài thơ phác họa không gian cuối ngày xuân bên ngoài phòng văn của tác giả, thể hiện tâm hồn rộng mở, giao hòa với thiên nhiên, lắng nghe tiếng cuốc kêu và trông cánh hoa xoan nở đầy sân giữa làn mưa bụi. Không chỉ phơi phới tình yêu, niềm say mê với thiên nhiên, bài thơ còn gửi gắm nỗi niềm "ưu quốc" của Nguyễn Trãi. Tiếng cuốc kêu không chỉ gợi nhắc thời khắc cuối xuân đầu hạ, mà còn gợi đến vận nước đang khó khăn. Hơn nữa, tác giả thể hiện niềm tin và hy vọng của mình thông qua hình ảnh hoa xoan vẫn nở bừng ở cuối bài.
Sưu tầm một bài thơ chữ Hán hoặc chữ Nôm của Nguyễn Trãi và viết đoạn văn - mẫu 7
Bài thơ Bảo kính cảnh giới - số 43 là bài thơ tả cảnh ngày hè cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nướ. Câu thơ lục ngôn cuối bài ngắn gọn, thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài thơ.
Rồi hóng mát thưở ngày trường,
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.