Top 30 Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (siêu hay)
Haylamdo biên soạn và sưu tầm tổng hợp trên 30 bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (mẫu 1)
- Dàn ý Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện
- Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (mẫu 2)
- Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (mẫu 3)
- Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (mẫu 4)
- Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (mẫu 5)
- Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (mẫu 6)
- Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (mẫu 7)
- Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (mẫu 8)
- Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (mẫu 9)
- Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (mẫu khác)
Top 30 bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (siêu hay)
Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện - mẫu 1
Mác-xim Go-rơ-ki là nhà văn nổi tiếng đến từ Nga. Từ nhỏ ông là người rất đam mê đọc sách và cùng với những gian khó tuổi thơ đã thắp sáng và nảy sinh khát vọng sáng tác của ông. Truyện Trái tim Đan-kô là một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông, được trích ở phần cuối “Tuyển tập truyện ngắn Mác-xim Go-rơ-ki”. Tác phẩm kể về sự hy sinh cao cả, tấm lòng vị tha yêu thương của người anh hùng Đan-kô.
Mở đầu là bức tranh thiên nhiên ở thảo nguyên u ám, với cảnh vật đáng sợ. Rồi lại có sự xuất hiện của ánh lửa xanh kỳ dị, gợi đến những câu chuyện hoang đường. Chính ánh lửa này xuất phát từ câu chuyện của một người anh hùng với trái tim vĩ đại và tràn đầy yêu thương. Một đoàn người trên thảo nguyên đang bị bủa vây trong bóng tối của khu rừng, cành lá thì dày đặc và ánh sáng mặt trời thì không chiếu đến. Họ không có con đường nào có thể thoát ra, ngày một tuyệt vọng và buông xuôi tất cả. Rừng tối mù mịt như bao đêm tối trên thế gian đều tụ lại dây, khiến cho cây cối mờ mờ ảo ảo hiện hình bao quỷ dữ. Trước cảnh tượng ấy ai mà không thương xót cho số phận của đoàn người. Bởi lẽ họ vô tội. Họ đang sống bình yên vui vẻ, không làm hại ai thì lại bị một bộ lạc khác đánh đuổi. Không chỉ phải chiến đấu với con người, mà họ còn phải chiến đấu với cả thiên nhiên. Chúng đã quật cho họ kiệt sức và tước đi ý chí của họ.
Nhưng một vị anh hùng, một chàng trai đã xuất hiện để cứu lấy cuộc sống của họ. Đan-kô đã tìm cách để dẫn dắt mọi người vượt qua khu rừng đáng sợ và tràn ngập bóng tối này. Nhưng khi đứng trước một khu rừng rậm rạp, con người mỗi lúc một kiệt sức thì con người lại lộ ra bộ mặt yếu hèn và nhút nhát của mình. Trước đó thì họ xin anh dẫn họ đi, bây giờ họ lại bắt đầu đổ lỗi cho Đan-kô. Họ mắng mỏ, họ bảo anh phải chết đi.Họ như bầy thú đã đến bước đường cùng. Người đọc cảm thấy vừa tức giận vừa thương hại những con người này. Có lẽ vì bất lực mà họ chẳng còn nghĩ đến ai ngoài mình ra. Thấy rất thương Đan-kô. Anh cũng chỉ muốn không thể để bộ lạc của mình phải trở thành những kẻ nô lệ cho kẻ thù. Vậy mà bây giờ họ lại kết tội anh, muốn anh phải chết.
Trái tim Đan-kô bỗng bùng lên niềm phẫn nộ sục sôi, nó cháy rực lên mạnh mẽ. Mặc dù Đan-kô rất phẫn nộ trước hành động ấy nhưng anh lại nhận ra rằng “Anh yêu họ và nghĩ rằng không có anh, có lẽ họ chết mất”. Một chàng trai có tấm lòng vị tha và yêu thương con người mặc cho bị đối xử tệ bạc nhưng vẫn quyết định cứu mọi người. Ý nghĩa muốn cứu mọi người quá mãnh liệt nhưng lại không được tin tưởng đến mức phải gào to lên như sấm.
Sau đó anh đã có một hành động xé toang lồng ngực của mình và giơ cao lên, giơ cao trái tim đang cháy sáng rực rỡ đẩy lùi tất cả đêm đen soi đường cho bộ lạc tiến lên. Đan-kô thật anh hùng, chàng đã cứu sống tất cả những người trong bộ lạc. Chàng vẫn đi trước, giơ cao trái tim dẫn đường, rừng cây dẫn ra trước bước chân Đan-kô. Nó như một điều gì đó thật cao quý, chói ngời. Và trong lòng người đọc cảm thấy vô cùng cảm phục, trân trọng con người này.
Rồi đoàn người cũng tìm ra được miền đất mới. Đó là một thảo nguyên tươi đẹp, giàu có. Tất cả đều vui mừng quên cả Đan-kô-vị cứu tinh của mình. Đan-kô kiêu hãnh ngắm nhìn thảo nguyên, mỉm cười sung sướng rồi anh gục xuống, tắt thở trong niềm tự hào. Anh chết nhưng trái tim kiêu hãnh của anh thì vẫn cứ cháy mãi. Nhưng rồi có ai nhớ đến sự hy sinh cao cả của anh? Họ vui sướng tràn đầy hy vọng vì được cứu sống rồi họ lại lập tức quên luôn người đã cứu mình. Đan-kô là hiện thân cho hình ảnh một con người xả thân cứu người mà không đòi hỏi được đền đáp. Go-rơ-ki đã dùng những từ ngữ chân thành và tốt đẹp nhất để ca ngợi, để trân trọng trước cái chết của Đan-kô. Đó còn là bức tranh gợi cho ta suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống. Phải chăng khi con người đứng trước những khó khăn, nghịch cảnh của cuộc sống thì họ sẽ quên mất mình là ai, sống một cách ích kỷ và tham lam. Nhưng vẫn sẽ có những con người giống như Đan-kô xuất hiện. Đứng trước vực tối cuộc sống, vẫn giữ trong mình trái tim yêu thương, một lòng tốt chân thành mà không cần đền đáp.
Một bức tranh thiên nhiên, một sự đấu tranh sự sống của con người đã hiện lên thật đặc sắc trong tác phẩm Trái tim của Đan-kô của Go-rơ-ki. Câu chuyện khiến cho người đọc phải suy nghĩ về những giá trị sống và mối quan hệ giữa con người trong hiện thực thực cuộc sống.
- Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm và trọng tâm cần làm sáng tỏ.
- Thân bài:
+ Phân tích vẻ đẹp về phẩm chất, tích cách của nhân vật.
+ Nêu và phân tích đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Tình huống truyện kịch tính, đưa nhân vật vào tình thế phải lựa chọn rõ ràng, quyết liệt.
Nghệ thuật trần thuật linh hoạt…
- Kết bài: Đánh giá khái quát vẻ đẹp của nhân vật và tài năng của tác giả. a
Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện - mẫu 2
Nam Cao là một nhà văn luôn thành công ở hai phương diện của sáng tác đó là khám phá về nội dung và phát minh sáng tạo về hình thức. Chính điều đó đã nâng tầm vóc nhà văn Nam Cao thành một nhà văn lớn, một tác gia lớn của nền văn xuôi hiện đại.
Truyện ngắn Chí Phèo (1941) đã được xếp vào hàng kiệt tác bởi Nam Cao đã “khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” cả về nội dung và nghệ thuật. Ở tác phẩm này nhà văn Nam Cao đã thể hiện được một trình độ bậc thầy về nghệ thuật xây dựng nhân vật sống động, khám phá miêu tả sâu sắc tâm lí nhân vật, kết cấu tác phẩm một cách độc đáo và có một vốn ngôn ngữ phong phú sinh động cho mọi loại hinh nhân vật. Theo dõi từng trang truyện ngắn đặc sắc này chúng ta sẽ thấy rât rõ tài nghệ đó của Nam Cao.
Nói đến văn xuôi là nói đến nghệ thuật xây dựng nhân vật, mỗi nhà văn có một cách thể hiện khác nhau và thành công ở những mức độ khác nhau. Đối với nhà văn Nam Cao ở tác phẩm này thì ông đã xây dựng được thành công cả tuyến nhân vật chính diện và phản diện và không những thành công mà thành công ở cấp điển hình.
Về các nhân vật phản diện nhà văn tập trung vào ba nhân vật đó là Bá Kiến, Lí Cường và Đội Tảo. Trong đó tác giả tập trung khắc hoạ bản chất của nhân vật Bá Kiến, Bá Kiến thức sự là một con hổ biết cười. Đối với một con mồi như Chí Phèo khi thì Bá Kiến nhỏ nhẹ để làm mềm nhũn Chí Phèo, có khi thì Bá Kiến doạ nạt bằng những lời lẽ có gang có thép. Ngoài cái thủ đoạn đó thì Bá Kiến được tác giả liệt kê ra nhiều thủ đoạn thâm độc xảo quyệt. Với những nét khắc hoạ đó nhà văn đã dựng lên được một Bá Kiến rất sớng động, rất điển hình cho bọn cường hào ác bá ở nông thôn trước cách mạng tháng tám.
Về nhân vật chính diện nhà văn tập trung vào hai nhân vật và mối quan hệ của hai nhân vật đó là Chí Phèo và Thị Nở. Hai nhân vật này có số phận khác nhau nhưng lại làm sáng tỏ cho nhau. Trong đó Thị Nở thực chất là nhân vật để làm nổi bật con người Chí Phèo, bi kịch Chí Phèo. Chí Phèo hiện hình dưới ngòi bút của Nam Cao có số phận rất duyên từ xuát than đến đời sống, nhưng Chí Phèo là nhân vật điển hình vì bên cạnh Chí Phèo còn có Năm Thọ, Binh Chức là những hình đồng dạng với Chí Phèo. Có thể khẳng định thành công nhất về mặt nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo là xây dựng được hai điển hình văn học, trong đó điển hình nổi bật nhất là nhân vật Chí Phèo.
Nói đến văn xuôi là nói đến nhân vật, nói đến nhân vật là nói đến tâm lí tính cách nhân vật, nói đến tác phẩm Chí Phèo là người ta nghĩ ngay đến cái tinh tế của nhà văn trong việc phát hiện ra được những nét tâm lí rất thật rất đúng của những con người tưởng là không có những nét tâm lí đó. Mỗi nhân vật sở dĩ thành công bởi những nét tâm lí tính cách khác nhau. Tâm lí của Bá Kiến là biết tâm lí của người đời, biết mềm nắn rắn buông, tâm lí của vợ Bá Kiến là hiếu kì lẳng lơ, tâm lí của người nông dân là sợ tai hoạ.
Khả năng miêu tả tâm lí sâu sắc nhất của Nam Cao trong tác phẩm này là đã khám phá được diễn tả được tâm lí của nhân vật chính đó là Chí Phèo và Thị Nở. Người đọc rất tâm đắc với nhà văn rất cảm phục nhà văn khi Nam Cao phát hiện được tâm lí của Chí Phèo khi gặp Thị Nở. Khi Chí Phèo nhận được bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo từ ngạc nhiên rồi sau đó là mắt ươn ướt cảm động và tiếp đến là có cái gì đó như là ăn năn muốn làm hoà với mọi người rồi làm nũng với Thị như với mẹ đó là những nét tâm lí rất thật của những con người muốn được tái sinh. Cái sâu sắc của Nam Cao chính là chỗ đó.Một biểu hiện nghệ thuật độc đáo của tác phẩm đó là cách tổ chức kết cấu tác phẩm. Đó là một cách kết cấu vừa linh hoạt vừa độc đáo vừa đa dạng. Cái độc đáo đầu tiên của kết cấu tác phẩm là tác giả đã đảo ngược thời gian đi từ hiện tại rồi đến quá khứ rồi đến hiện tại.
Một biểu hiện của kết cấu không mới nhưng lại rất hợp lí ở tác phẩm này đó là kết cấu theo lối khép kín. Nhà văn mở đầu tác phẩm bằng một lò gạch cũ nơi Chí Phèo ra đời rồi kết thúc tác phẩm cũng mọt lò gạch cũ với một sự liên tưởng một Chí Phèo con sắp ra đời. Cái vòng luẩn quẩn của cuộc đời Chí Phèo vẫn cứ tiếp diễn đó là vòng luân hồi nhưng lại bế tắc. Ýnghĩa của tác phẩm toát ra rất sâu sắc từ kết cấu này.
Ngoài hai kiểu kết cấu trên nhà văn đã tổ chức được một sự đa dạng của hành văn khi thì độc thoại khi thì đối thoại, khi thì kể, khi thì tả, khi thì tường thuật.
Một phương diện nghệ thuật mà nhà văn rất thành công ở truyện ngắn Chí Phèo, đó là cách sử dụng ngôn ngữ rất phù hợp với từng đối tượng nhân vật. Ngôn ngữ của bọn Bá Kiến, Lí Cường là ngôn ngữ của bọn bề trên khi mềm mỏng khi đanh rắn rất biến hoá. Ngôn ngữ của các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở thì rất quê mùa có khi là tục tằng thô lỗ đó là loại ngôn ngữ phù hợp với tính cách nhân vật. Nhìn chung tác phẩm viết về đề tài người nông dân nên ngôn ngữ mà tác giả sử dụng trong tacs phẩm là loại ngôn ngữ bình dân chân quê, rất phù hợp với cảnh và tình của tác phẩm.
Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những truyên ngắn xuất sắc tiêu biểu của văn học hiện thực trước cách mạng tháng tám nói chung của nhà văn Nam Cao nói riêng. Tác phẩm này thành công trên nhiều phương diện cả nội dung và hình thức, nhưng đặc biệt nhất vẫn là nghệ thuật xây dựng kết cấu tác phẩm. Cùng một vấn đề rất phổ biến của xã hội lúc bấy giờ nhưng với tài nghệ của mình Nam Cao dẫn điển hình hoá được cả hai loại nhân vật chính diện và phản diện. Đọc tác phẩm này chúng ta vừa cảm phục được cái tâm của tác giả lại vừa cảm phục cái tài của tác giả. Cái tâm và cái tài đó là tiền đề để nhà văn thành công ở tác phẩm này.
Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện - mẫu 3
Đề tài người phụ nữ được khai thác nhiều trong văn học nói chung và văn học trung đại Việt Nam nói riêng. Tác giả Nguyễn Dữ lại đem đến cho ta những cảm nhận thấm thía về số phận người phụ nữ qua câu chuyện đau đớn của nàng Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện trích trong “Truyền kì mạn lục”. Mở đầu tác phẩm, tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau để bộc lộ vẻ đẹp đời sống và tính cách nhân vật. Nguyễn Dữ đã khái quát vẻ đẹp của nàng: “Vũ Thị Thiết người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chàng Trương cũng bởi mến cái dung hạnh ấy, nên mới xin với mẹ trăm lạng vào cưới về.
Từ khi lấy nhau, Vũ Nương luôn thể hiện tình yêu thương, thủy chung với chồng. Nàng luôn giữ gìn khuôn phép nên dù chồng nàng đa nghi, phòng ngừa quá mức nhưng gia đình chưa từng xảy ra bất hoà. Khi tiễn chồng đi, Vũ Nương rót chén rượu đầy, thủ thỉ với chồng bao lời tình nghĩa: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Từ câu nói ấy, ta cảm nhận được sự cảm thông, thấu hiểu mà Vũ Nương dành cho chồng. Ngày qua tháng lại, nàng nhớ chồng khôn nguôi. Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì lòng nàng lại đau đáu nhớ tthương. Về sau, nàng hạ sinh một đứa con trai, đặt tên là Đản. Với mong muốn bù đắp cho đứa con trai thiếu vắng tình cha nên Vũ Nương đã chỉ cái bóng trên tường và bảo rằng đó là cha Đản.
Trong mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu, Vũ Nương đã thể hiện tấm lòng hiếu thảo dành cho mẹ chồng. Nàng lễ bái thần phật và tận tình chăm sóc mẹ chồng già yếu, ốm đau. Người mẹ chồng đã ghi nhận tấm lòng thơm thảo của Vũ Nương: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp…. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Những tưởng với những đức tính trên, Vũ Nương sẽ có cuộc sống vô cùng hạnh phúc. Thế nhưng, ngày đoàn tụ cũng là ngày đau đớn. Chỉ dựa vào một lời nói của bé Đản ngây thơ mà Trương Sinh nghi oan vợ thất tiết. Chiến tranh phong kiến và xã hội nam quyền đã đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng. Người chồng đầu gối tay ấp, siết bao thương yêu mà này sẵn sàng mắng nhiếc nàng rồi đánh đuổi đi. Vũ Nương tự coi mình là kẻ bạc mệnh hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ rồi gieo mình xuống dòng sông.
Yếu tố hoang đường kì ảo nằm ở chi tiết Vũ Nương chết đi và được sống dưới thủy cung. Tâm hồn cao đẹp của nàng đã làm thần linh cảm động. Những ngày tháng an nhàn ở chốn mây nước vẫn không thể nào làm nguôi ngoai nỗi nhớ nhà của Vũ Nương. Nàng vẫn khẳng định với chàng Phan rằng sẽ có ngày tìm về quê cũ. Đến khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho Vũ Nương, nàng vẫn hiện lên nói lời tạ từ mà không oán trách. Chi tiết kì ảo này cho thấy cái nhìn nhân đạo của nhân dân ta, rằng những người tốt bụng sẽ luôn được thần linh che chở. Thế nhưng, một mặt, nó cũng nói lên hiện thực tàn khốc. Một khi bi kịch đã xảy ra thì không gì có thể cứu vãn được. Hạnh phúc đã vỡ tan, gia đình tan nát, người sống hóa thành kẻ chết. Điều ấy không gì bù đắp được.
Với “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã sử dụng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện hấp dẫn, chi tiết truyện thắt nút – mở nút gay cấn, miêu tả nhân vật khéo léo và kết hợp các yếu tố hoang đường kì ảo. Từ đó, tác phẩm là lời ngợi ca vẻ đẹp của những người phụ nữ trong xã hội xưa và lên án chiến tranh phi nghĩa, hủ tục phong kiến.
Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện - mẫu 4
Nam Cao là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Truyện của Nam Cao nóng hổi chất hiện thực của thời đại và chan chứa tấm lòng yêu thương con người, đặc biệt là những người khốn khổ. Cùng với Chí Phèo, trăng sáng, đời thừa,... Lão Hạc là truyện ngắn đặc sắc. Nhân vật trung tâm của thiên truyện là lão Hạc, một người nông dân gặp nhiều nỗi khổ tâm và bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương con.
Đọc vài dòng đầu của truyện, chúng ta chợt chạnh lòng trước tình cảnh đau thương của lão Hạc. Nhà nghèo, không có tiền cưới vợ cho đứa con trai duy nhất, lão Hạc rất buồn bã, khổ tâm, xót xa. Cậu con trai bi quan thất vọng trước cái xã hội mà người ta sống với nhau chỉ vì tiền, xem tình cảm chỉ là một món hàng nên xin vào miền nam làm phu đồn điền cao su. Nguyện vọng của cậu ta là vào đấy, cố gắng làm ra nhiều tiền để lấy được người cậu yêu. Thật ra, cậu ta suy nghĩ hãy còn nông cạn mà quên những câu ca dao này:
“Cao su đi dễ khó về,
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo”.
Hay:
“Cao su xanh tốt lạ đời,
Mỗi cây bón một xác người công nhân”.
Lão Hạc là người gặp bất hạnh chồng chất bất hạnh. Trước đây, lão Hạc bất hạnh vì vợ chết. Nay, lão rơi vào nỗi bất hạnh vì con ra đi biền biệt. Đối với lão “ngày cũng như đêm chỉ thui thủi một mình”. Bây giờ lão đành làm bạn với con chó Vàng. Lão và chó Vàng vui buồn có nhau. Dù đứa con ở phương xa nhưng lúc nào lão cũng nghĩ về con và lo cho con: “Ta bán vườn của nó, cũng nên để ra cho nó, đến lúc nó về, nếu nó không đủ tiền cưới vợ thì ta cho vợ chồng nó để có chút vốn mà làm ăn”.
Nhưng trên cõi đời này, không ai có thể dự đoán được tương lai của mình. Lão Hạc không phải là trường hợp ngoại lệ. Ôm đau do tuổi già đã cướp đi những ý nghĩ tốt đẹp của lão. Dân gian có câu “nhà sập bìm leo”- lão chưa khỏe hẳn thì tai họa do thiên nhiên ập đến. Những cơn bão nặng nề, dữ dội tàn phá làng mạc, thôn xóm cũng như cướp sạch sành sanh hoa màu của lão. Giá gạo trở nên đắt đỏ. Bởi thế, đói nghèo chồng chất đói nghèo. Lão Hạc rơi vào bế tắc. Con chó Vàng mà lão thương yêu bị bán đi. Đó là điều ngoài ý muốn, đồng thời là nỗi day dứt, tiếc nuối, xót xa của lão. Lão cất tiếng khóc chan chứa nỗi khổ đau: “Mặt lão tự nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão hu hu khóc...”. Tiếng khóc của lão Hạc thể hiện trạng thái dồn nén đến cùng cực, cạn kiệt, khiến chúng ta liên tưởng đến một quả chanh bị vắt kiệt nước, chỉ còn cái vỏ bèo nhèo. Nỗi đau của lão Hạc không kém nỗi đau của lão Gôriô trong kiệt tác cùng tên của đại văn hào Balzac. Lão Gôriô và lão Hạc có điểm chung là cả hai lão đều gặp nỗi đau trong đoạn cuối của cuộc đời. Điểm khác nhau là nguyên nhân của mỗi nỗi đau do những hoàn cảnh khác nhau gây ra. Lão Gôriô đau đớn, bất hạnh vì bị ba cô con gái ruồng rẫy, bạc đãi khi lão già yếu. Còn lão Hạc có con trai hiếu thảo ở phương xa nhưng đau khổ vì đói nghèo do hoàn cảnh xã hội gây ra. Tiếng khóc của lão Hạc bơ vơ, lạc lõng giữa dòng người, dòng đời. May mắn thay, ông giáo chia sẻ với lão nhưng ông giáo cũng nghèo.
Việc bán con chó Vàng đi khiến lương tâm của lão ray rứt mãi: “Thì ra tôi già bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó!”. Tình thương yêu con vật có nghĩa khiến lão nghĩ mình là kẻ bạc bẽo, đánh lừa loài vật. Con người lừa dối con người đã xấu xa. Tồi tệ hơn khi con người lừa con vật. Vì lão Hạc nghĩ như thế nên lão cảm thấy hổ thẹn. Những lời nói giữa lão Hạc và ông giáo cho chúng ta thấy lão Hạc đang trên đường đi đến đỉnh điểm của nỗi khốn khổ và bất hạnh: “Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hoá kiếp cho nó để nó làm kiếp người may ra có sung sướng hơn một chút... Kiếp người như kiếp tôi chẳng hạn!...”. “Nếu kiếp người cũng khổ nốt thì ta nên làm kiếp gì cho thật sướng?” Chắc có lẽ, lão Hạc là người tín ngưỡng phật giáo nên gặp đau khổ, lão liên tưởng đến thuyết "nhân quả ba đời" của nhà phật. Những lời lão Hạc thốt ra thể hiện sự nhân từ lẫn mỉa mai, chua chát, thất vọng, bế tắc.
Tuy nghèo nhưng lão Hạc vẫn luôn nghĩ đến con. Lão đặt niềm tin trọn vẹn vào ông giáo cùng khổ. Lão giữ tất cả ba sào vườn và 30 đồng bạc để khi lão chết đi con trai lão vẫn còn chút tài sản làm kế sinh nhai. Ôi! Lòng cha thương con đến thế là cùng! Chắc có lẽ, sau này cậu con trai nếu may mắn sống sót trở về, khó có thể hiểu rằng, để có được chút của cải ấy, cha của cậu ta phải dè sẻn, hôm ăn chuối, hôm ăn sung luộc, bữa ăn rau má, củ ráy, bữa trai, bữa ốc, cho đến ... Bả chó! Ông giáo bất ngờ khi biết lão Hạc xin bả chó của Binh Tư. Có lần, Binh Tư nói với ông giáo trong cái “bĩu môi”: “Lão làm bộ đấy! Thật ra thì lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu!”. Ông giáo suýt chút nữa đã hiểu lầm phẩm chất “đói cho sạch, rách cho thơm” của lão Hạc nếu chỉ nghe lời của kẻ xấu như Binh Tư.
Người ta thường nói rằng: Kẻ bất lương luôn có những ý nghĩ xấu xa. Thật đúng như vậy, Binh Tư chuyên hành nghề ăn trộm nên nghĩ lão Hạc xin bả chó là để cùng chung bước đường của hắn. Không! Lão Hạc là một đóa hoa sen trong sạch giữa bùn nhơ. Lão tự kết liễu cuộc đời mình bằng bả chó vì quá khốn cùng, vì muốn bảo toàn danh dự và nhân phẩm. Nếu trong kiệt tác chí phèo của Nam Cao, chí phèo tự kết liễu cuộc đời mình bằng nhát dao oan nghiệt thì lão Hạc cũng tự tìm đến cái chết nhưng bằng bả chó. Chí phèo đau đớn vì cả làng Vũ Đại ai cũng coi hắn là con quỷ dữ chứ không phải là con người. Còn lão Hạc may mắn hơn chí phèo ở chỗ lão Hạc được mọi người quý mến, đồng thời lão cũng là người cao thượng. Lão Hạc không muốn sống những chuỗi ngày tăm tối để ăn hết phần tiền dành dụm cho con, để làm phiền luỵ đến mọi người.
Nhưng xét cho cùng, lão Hạc là người vì con. Có thể xem cái chết của lão như một sự hi sinh, ôi! Tình thương con của lão Hạc vừa bao la, vừa toả sáng lung linh như viên ngọc trăm màu.
Tóm lại, cuộc đời lão Hạc là những trang đầy bất hạnh, đau khổ. Nhưng chúng ta thấy, càng trong đau khổ, lão Hạc càng đẹp lạ thường. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp chung của những người nông dân bé nhỏ ở Việt Nam trước cách mạng tháng tám?
Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện - mẫu 5
Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là người "suốt đời đi tìm cái đẹp", ông có phong cách sáng tác độc đáo tài hoa và uyên bác. "Chữ người tử tù" được biết đến là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Tuân. "Chữ người tử tù" in trong tập truyện "Vang bóng một thời" được đánh giá là "một văn phẩm đạt tới sự toàn diện, toàn mĩ".
Truyện kể về cuộc gặp gỡ đầy éo le của Huấn Cao và viên quản ngục. Huấn Cao là một người có tài viết chữ rất đẹp nhưng do chống lại triều đình nên đã bị kết án tử hình. Tại nhà giam, Huấn Cao đã gặp viên quản ngục - một người thích "chơi chữ" và muốn xin chữ của ông để treo trong nhà. Huấn Cao được viên quản ngục biệt đãi nhưng vẫn dửng dưng. Tuy nhiên, sau khi hiểu ra tấm lòng của viên quản ngục, ông đã quyết định cho chữ và khuyên viên quản ngục nên về quê sống để giữ "thiên lương cho lành vững".
Chủ đề của tác phẩm "Chữ người tử tù" là quan niệm về cái đẹp và cái thiện. Với Nguyễn Tuân, "cái tài", "cái tâm" vốn không thể tách rời, cái đẹp không thể chung sống lẫn lộn với cái xấu, cái ác. Chủ đề được thể hiện qua cuộc gặp gỡ trong cảnh ngộ đặc biệt giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Thời gian và không gian gặp gỡ của Huấn Cao và viên quản ngục rất đặc biệt, đó là vào những ngày cuối cùng trong cuộc đời Huấn Cao ở chốn ngục tù. Về quan hệ xã hội, họ là những kẻ đối nghịch với nhau, một người là tử tù - chống lại triều đình, một người là viên quản ngục - đại diện cho trật tự xã hội đương thời. Thế nhưng trên phương diện trên phương diện nghệ thuật, họ đều là những người say mê cái đẹp. Huấn Cao là nghệ sĩ tài hoa còn viên quản ngục là người coi trọng cái đẹp. Qua tình huống truyện, tác giả tác giả đã làm nổi bật bản chất của hai nhân vật là Huấn Cao và viên quan cai ngục. Huấn Cao là một người tài giỏi, tâm lương trong sáng nhưng lại bị cầm tù về nhân thân còn viên quan coi ngục là người say mê, yêu thích cái đẹp và coi trọng nhân tài nhưng lại chưa tìm cho mình một môi trường sống và làm việc thích hợp. Huấn Cao được miêu tả nổi bật ở vẻ đẹp tài năng với tài viết chữ và có lí tưởng sống cao đẹp. Tài năng của Huấn Cao được nhiều người biết tới "Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao! Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn La vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó không?". Mỗi nét bút không chỉ là sự kết tinh tinh hoa, tâm huyết mà còn là sự ký thác của những khát vọng mãnh liệt trong tâm hồn nên . Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao ấy đã khiến cho những người đại diện cho trật tự xã hội phải ngưỡng mộ và phải xót xa khi Huấn Cao lĩnh án tử. Không chỉ có tài viết chữ đẹp, Huấn Cao là một người có lí tưởng sống cao cả, dám đứng lên chống lại xã hội đen tối, thối nát đương thời "Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khóa vượt ngục nữa đúng không?", "Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thành gong cuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt. Một trận mưa rệp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen". Viên quản ngục có ý nương nhẹ cho Huấn Cao thì ông "chằng chút nao lòng", nói những lời ngạo nghễ, bướng bỉnh mà không hề sợ bị đánh đập. Qua những chi tiết trên, chúng ta có thể thấy Huấn Cao là một người có khí phách kiên cường và bất khuất. Sở hữu một tài năng viết chữ vượt bậc nhưng Huấn Cao không vì quyền lực, vàng bạc mà ép mình viết chữ bao giờ. Sau khi ông nhận ra tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" của viên quản ngục "Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ", Huấn Cao đã tự nguyện cho chữ.
Ngòi bút của nhà văn Nguyễn Tuân không chỉ hướng về Huấn Cao, viên quản ngục cũng được nhà văn khắc họa một cách rõ nét. Viên quản ngục là người coi trọng cái đẹp, cái tài. Tuy ông ở trong "đề lao", nơi mà con người sống bằng sự tàn nhẫn, lừa lọc nhưng viên quản ngục này vẫn là "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ". Nghe danh Huấn Cao là người có tài viết chữ đẹp nên khi "nhận được phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường", ông đã biệt đãi Huấn Cao. Sau khi được Huấn Cao cho chữ và khuyên răn, viên quản ngục đã cảm động "vái người tử tù một cái". Điều này cho thấy mong ước được thoát khỏi chốn ngục tù của viên quản ngục.
Bên cạnh cách xây dựng tình huống truyện và nhân vật độc đáo, tác phẩm "Chữ người tử tù còn sử dụng thủ pháp đối lập, tương phản ở cảnh cho chữ - cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nơi cho chữ là "Buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián", thời gian cho chữ là canh ba nửa đêm gợi cảm giác bí mật, thiêng liêng. Nhà văn đã đặt nhân vật vào trong một tình huống đối lập, tương phản gay gắt giữa ánh sáng và bóng tối. Đó là sự đối lập giữa bóng tối của ngục tù với ánh sáng của bó đuốc, tấm lụa và những con chữ. Người tử tù thì uy nghi, viên cai ngục lại khúm núm "Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng".
Tác phẩm "Chữ người tử tù" đã xây dựng thành công nhận vật Huấn Cao sự hội tụ của của cái tài và cái tâm. Với ngòi bút sắc sảo, nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo, tình huống truyện đặc sắc, tác phẩm đã đem đến cho người đọc những ấn tượng khó quên.
Trên đây là bài Phân tích, đánh giá chủ đề, nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật của Chữ người tử tù. Hi vọng bài viết này sẽ giúp các em hiểu rõ về chủ đề của tác phẩm cũng như những nét đặc sắc nghệ thuật có một không hai trong ngòi bút tinh tế của nhà văn Nguyễn Tuân.
Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện - mẫu 6
Nam Cao được biết đến chính là “ông hoàng của truyện ngắn”, những tác phẩm truyện ngắn của ông không chỉ mang lại được những giá trị hiện thực sâu sắc mà mang được những giá trị nhân văn. Nam Cao nổi danh trong sáng tác viết về người nông dân nghèo khổ trước Cách mạng và trong đó không thể không nói đến “Lão Hạc”.
Có thể nhận thấy được rằng cũng chính lão Hạc cho ta một cái nhìn về quá khứ để mà trân trọng nhiều hơn cuộc sống hôm nay. Tác phẩm thực sự là một trong những tác phẩm giá trị không chỉ về hình thức, cách diễn đạt ngôn từ phong phú và bình dị thì còn thể hiện những chiều sâu tư tưởng đạo lý và hiện thực xã hội lúc bấy giờ. Có thể nhận thấy được cũng chính cuộc sống là một cuộc đấu tranh dường như cũng phải chỉ đơn giản là để sinh tồn mà còn là một cuộc đấu tranh để bảo toàn nhân cách cho mỗi con người.
Nếu như người ta có thể bắt gặp những thế lực cường quyền hắc ám trong xã hội cũ đã đẩy người nông dân rơi vào tình cảnh éo le như trong “Tắt đèn”. Hay những thế lực cường quyền đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng không lối thoát vì sưu thuế như ở nhân vật anh Pha trong “bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan. Thì người đọc vẫn có thể ngầm nhận ra được sự tài tình của nhà văn Nam Cao như cũng đã lên án đanh thép thế lực cường quyền đã đẩy tình cảnh người nông dân đến mức đường cùng không lối thoát.
Lão Hạc thực sự cũng chính là một sản phẩm của một tấm lòng nhân đạo cao cả. Tác phẩm như cũng chính là tình yêu thương, là sự ngợi ca, và đó đồng thời cũng là sự trân trọng người lao động của Nam Cao. Những người nông dân trước cách mạng hiện ra dưới ngòi bút của nhà văn Nam Cao cũng thật bình dị và chân thành biết bao nhiêu. Ta như cũng có thể nhận thấy được chính những nếp cảm, suy nghĩ của chính họ đã được lột tả một cách chân thực và độc đáo nhất. Không còn là một nhân vật bình thường nữa mà ta nhân vật Lão Hạc đại diện cho tất cả người nông dân trong xã hội cũ.
Những người nông dân như lão Hạc, ta dường như thấy được suốt đời sống trong cảnh nghèo và cái đói. Lão Hạc cũng đã dành hầu như cả đời mình để nuôi con mà chưa bao giờ nghĩ đến mình. Lão có một tình yêu thương con vô bờ bến và thật khó có thứ gì đó có thể so sánh được. Lão cũng rất quặn đau và thương khi con không lấy được vợ vì nhà ta nghèo đến thảm hại. Vì tấm lòng thương con phải bỏ làng, và bỏ xứ ra đi để ôm mộng làm giàu ở chỗ “một đi khó trở lại” như đồn điền cao su. Độc giả làm sao có thể kìm nén được cảm xúc khi chứng kiến được lão Hạc như cũng thật khổ biết nhường nào khi phải bán đi cậu Vàng, kỳ vật duy nhất của đứa con trai. Câu hỏi như cứ xoáy sâu tận tâm can của mỗi người, nếu như lão Hạc mà không bán cậu Vàng đi thì chính lão cũng không biết nuôi gì để cho cậu sống nữa khi đã không có gì ăn. Lão Hạc cũng đã cố gắng ăn củ chuối để sống qua ngày và lão nhận ra được rằng nếu như lão sống thêm, nhất định lão sẽ tiêu hết số tiền dành dụm cho đứa con mình bấy lâu nay. Thế rồi lão đã đi đến quyết định cuối cùng đó chính là việc xin Binh Tư ít bả chó và tự vẫn. Tình cảnh của lão Hạc thực sự là một trong những tình cảnh éo le và nó như thể hiện được thân phận khổ đau của người nông dân trước cách mạng thực sự khó khăn.
Thực sự chính cái chết của Lão Hạc sáng bừng phẩm chất cao đẹp của người nồng dân. Ta như cũng nhận thấy được chính cái chết của lão Hạc dường như cũng lại đã khiến ta vừa cảm thương vừa nể phục một nhân cách giàu tự trọng. Lão Hạc đã chết nhưng đã quyết giữ cho được mảnh vườn, và hơn hết lão như không muốn làm ai liên lụy nên đã chuẩn bị từ trước hết cho mình.
Độc giả đọc tác phẩm “lão Hạc” không khó để nhận thấy đâu phải chỉ mình lão khổ. Người ta như cũng đã thấy được ngay cả những hạng người như Binh Tư, một kẻ do cái nghèo mà bị tha hoá thành một tên trộm cắp. Và đó cũng chính là ông giáo, là một người trí thức đầy hiểu biết nhưng cũng không thoát ra khỏi áp lực của cảnh vợ con rách áo lo từng miếng ăn. Nếu như lão Hạc đau buồn trước việc phải bán cậu Vàng thì ông giáo cũng sẽ đau thậm thấu tâm can khi phải bán sách.
“Lão Hạc” chính với những giá trị hiện thực và giá trị nhân văn sâu sắc ta có thấy niềm tin đồng thời đó cũng chính là những sự lạc quan của nhà văn vào bản chất tốt đẹp của con người. Thế nhưng, thông qua đó ta nhận thấy được rằng chính điều quan trọng hơn mà nhà văn muốn nhắn gửi đó là một lời tố cáo. Tác phẩm như cũng đã lại cất lên như là một tiếng kêu để cứu lấy con người đã bị xã hội đẩy vào tình trạng buồn thảm đó.
Tác phẩm “Lão Hạc” như mang lại cho ta một cái nhìn về quá khứ để mà trân trọng nhiều hơn cuộc sống hôm nay. Thông qua đó có thể hiểu được tình cảnh khổ đau của những người nông dân trước cách mạng họ đã phải chịu nhiều đau khổ, ngay cả sự sống cũng như bị bóp nghẹt lại
Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện - mẫu 7
Để một tác phẩm văn học trở nên thành công thì cần có rất nhiều yếu tố tác động vào như nội dung, nghệ thuật, cùng các giá trị nhân văn mà nó mang lại. Một trong những yếu tố quan trọng đó chính là cách xây dựng tình huống truyện. Một truyện ngắn muốn hay, cuốn hút người đọc thì phải có được một cốt truyện hấp dẫn. Một trong số ít nhà văn được mệnh danh là bậc thầy trong xây dựng cốt truyện đó chính là Kim Lân. Các tác phẩm của ông đều có những nét riêng biệt, đặc sắc, nổi bật trong số đó chính là tác phẩm “Vợ nhặt”. Truyện ngắn phản ánh sự thật về nạn đói những năm 1945 và cuộc sống nghèo khổ của nhân dân thời bấy giờ.
Truyện ngắn nói về nhân vật Tràng, một người dân ngụ cư nghèo khổ sống cùng mẹ. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả Tràng như một sản phẩm vội vàng của tạo hóa “hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch". Quả thực Tràng là một thanh niên rất xấu xí, chả ai thèm ngó ngàng. Chẳng những vậy, cái nghèo, cái đói luôn đeo bám, quẩn quanh hai mẹ con Tràng. Kim Lân đã dùng những từ ngữ chân thật để miêu tả cuộc sống và ngôi nhà mà Tràng đang ở “những bụi cỏ dại lổn nhổn”, “đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà”, “hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi”…. Cuộc sống túng thiếu của hai mẹ con hiện lên thật giản dị, tội nghiệp, khiến người khác không khỏi cảm thấy xót thương cho hai số phận. Nhưng điều làm cho Tràng cảm thấy tủi nhục nhất đó chính là mang trong mình cái danh dân ngụ cư, bị dân làng khinh miệt, coi thường.
Tuy nghèo đói nhưng chàng vẫn có một công việc để làm, để trông mong, đó chính là phu xe, hàng ngày bốc vác, chở gạo ra các chợ. Công việc thì vất vả, đói khát nhưng quả thật anh ta lúc nào cũng có thể vui vẻ, lạc quan. Giữa trời trưa nắng gắt, phải kéo cả một xe gạo đầy nặng trĩu, nhưng chàng ta vẫn có sức cất lên những câu hò:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”
Những câu hò này không hẳn là có ý trêu ghẹo những cô gái ngồi bên đường, mà chủ yếu để giúp chàng ta quên đi những mệt mỏi, đói khát mà mình đang phải chịu. Ấy vậy mà chỉ bằng vài ba lời hát vu vơ mà khiến Tràng được một người con gái để ý và đi theo đẩy giúp. Tràng là ngưởi hiểu rõ hơn ai hết những gì mà mình hát ở trên không phải là sự thật, làm gì mà có gạo trắng mà ăn chứ nói gì đến giò chả. Để rồi đến khi gặp người con gái ấy lần thứ hai, Tràng đã rất đỗi ngạc nhiên trước sự thay đổi ngoại hình của Thị “Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trơ lại hai con mắt”.
Quả thực Thị đã gầy đi rất nhiều, có lẽ vì đói, vì khát mà cơ thể con người Thị đã bị tàn phá nhanh đến như vậy. Thị chạy đến sưng sỉa trước mặt Tràng “Điêu! người thế mà điêu”, mới đầu hắn ta chẳng hiểu gì nhưng rồi một lúc cũng ngộ ra rồi mời Thị đi ăn “thích ăn gì thì ăn”. Thị ta chẳng ngại ngùng gì mà cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc, quả thực lúc này thị ta nhìn rất trơ trẽn. Người ngoài nhìn vào có người sẽ khinh bỉ, cho rằng thị ta đang vứt hết cả lòng tự trọng đi để ăn, nhưng cũng sẽ có những người xót thương, đồng cảm cho một con người đang phải chịu cơn đói hành hạ. Khi ấy, con người ta chẳng còn bận tâm đến danh dự, hay nhân phẩm gì nữa, ăn no mới là điều quan trọng trước hết. Đợi đến khi Thị ăn xong, Tràng có nói câu nửa vui nửa đùa rằng “về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Tưởng Thị sẽ cười chê mình, nào ngờ Thị về thật, về làm dâu nhà Tràng. Một đám cưới diễn ra.
Việc một con trai lớn lên, xây nhà, cưới vợ là việc quá đỗi bình thường, nhưng nhân vật Tràng lại là một thanh niên xấu xí, nghèo đói, gia cảnh khó khăn, đặc biệt là dân ngụ cư nữa nên việc Tràng có được vợ làm rất nhiều người ngạc nhiên. Qua đây, ta đã thấy được nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo của Kim Lân: vợ đáng lẽ ra là người ta yêu, qua tìm hiểu, đính ước mà đến với nhau, nhưng ở đây, Tràng ta lại “nhặt” được vợ theo đúng nghĩa đen và của hồi môn chắc có lẽ chỉ là vài bát bánh đúc mà thị ta vừa ăn lúc trước.
Việc Tràng có vợ khiến rất nhiều người ngạc nhiên, cụ Tứ – mẹ Tràng cùng tất cả những người thôn ngụ cư, người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì “cười lên rung rúc", người lại lo dùm cho anh ta "Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ dài về". Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”. Người đời cười chê, chế nhạo thế nhưng chẳng làm hai vợ chồng Tràng cảm thấy tủi nhục, xấu hổ. Cho đến khi dẫn Thị về nhà, cả cụ Tứ lẫn Tràng đều không tin nhà mình có con dâu.
Cụ Tứ vừa vui vừa buồn, vừa cảm thấy thương xót cho con trai mình. Bà vui vì con trai mình đến tuổi trưởng thành đã cưới được vợ, bà mừng cho hai đứa chúng nó, nhưng bà cũng buồn, buồn vì gia đình nhà mình quá nghèo. Đám cưới gì mà chẳng có cờ có hoa, không một mâm cỗ, không kèn trống, không người đưa đón, chỉ đơn giản là đưa dẫn nhau về ở chung, cùng nhau vun vén, xây dựng gia đình. Bước vào căn nhà lụp xụp mà hai mẹ con Tràng đang ở mà Thị chỉ biết thở dài, bắt tay vào công việc dọn dẹp. Đến bữa ăn về nhà chồng cũng chỉ là nồi cháo loãng với chút muối trắng, cuộc sống của ba con người quả thực rất nghèo khổ.
Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình. Ông xót thương cho dân tộc trước thảm họa đói chết. Ông cũng ái ngại cho người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết (gia đình, nhan sắc, tính cách, tên tuổi…).
Không những vậy, nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng hạnh phúc và niềm vui khi nhặt vợ của Tràng; cái duyên thầm của thị qua cái liếc mắt với Tràng…Có thể nói, nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con người lao động nghèo trước thảm họa đau thương, chết chóc.
Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động qua hình ảnh của bà cụ Tứ: một người mẹ giàu tình thương con, giàu lòng nhân hậu và niềm tin vào cuộc sống và đây cũng chính là niềm tin của nhà văn vào phẩm chất tốt đẹp của con người.
Thông qua tình huống truyện, nhà văn lên án và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp đã đẩy nhân dân ta vào thảm họa đói nghèo, chết chóc. Chính chúng đã làm cho giá trị con người trở thành rẻ rúng như rơm như rác: vợ mà nhặt được.
Đúng là một tình huống truyện rất lạ mà Kim Lân đã dựng nên. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào một tình huống éo le để làm nổi bật lên những giá trị nhân văn sâu sắc. Ông không chỉ muốn nói lên nét đẹp trong tính cách con người Việt Nam là dù có ở trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào, lúc nào cũng có thể đối mặt với cái chết nhưng họ vẫn yêu thương, quan tâm nhau mà ông còn muốn lên án chế độ thực dân độc ác đã khiến nhân dân ta trở nên nghèo đói, lầm than.
Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện - mẫu 8
Đời thừa (1943) là một truyện ngắn nổi bật của Nam Cao trong mảng đề tài về người trí thức. Tác phẩm đánh dấu sự chín muồi trong tư tưởng nghệ thuật của nhà văn và thường được xem như một tuyên ngôn của Nam Cao về văn học. Không chỉ có giá trị về mặt tư tưởng, Đời thừa còn đặc sắc về nghệ thuật tự sự. Đây cũng là phương diện chưa được chú ý nhiều trong những phân tích, bình giảng về truyện ngắn này.
Đời thừa có cấu trúc điển hình của một truyện ngắn. Toàn bộ câu chuyện chỉ diễn ra từ ngày hôm trước đến sáng hôm sau với sự kiện chính là trận say rượu của nhà văn Hộ, nhân vật trung tâm. Câu chuyện cũng không được thuật lại theo trình tự thời gian. Truyện mở đầu bằng đoạn văn mà người kể chuyện miêu tả cận cảnh khoảnh khắc Hộ đang chăm chú đọc sách, qua đó có thể thấy thế giới sách là niềm say mê lớn nhất của nhân vật. Rồi từ đó, mạch truyện hồi cố những chi tiết trong quá khứ của nhân vật, người kể chuyện cung cấp cho người đọc những chi tiết để hình dung về con người của Hộ, nhất là những suy tư của nhân vật. Cách tổ chức mạch truyện phá vỡ trật tự sự kiện như vậy chính là một đặc trưng nổi bật của nghệ thuật tự sự hiện đại so với truyền thống.
Đời thừa là một truyện ngắn ít hành động không có những kịch tính dồn dập, thay vào đó, truyện tập trung miêu tả dòng suy tưởng và những xung đột trong thế giới tinh thần của nhân vật. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba, trần thuật theo điểm nhìn bên trong gắn với ý thức của nhân vật hơn là từ điểm nhìn bên ngoài. Hình thức trần thuật hướng nội này phù hợp với việc khắc hoạ nhân vật như là một con người có đời sống tư tưởng. Hộ không khỏi làm người đọc liên hệ đến Điền, nhân vật nhà văn trong truyện ngắn Giăng sáng được Nam Cao sáng tác trước đó. Nhưng nếu như Điền vốn từng có những ngộ nhận trong việc xác định giá trị mình muốn theo đuổi trong sự nghiệp và đời sống thì ngay từ đầu, Hộ đã được miêu tả như một con người có những lí tưởng đáng trân trọng. Hộ đặt ra nguyên tắc sống tình thương coi kẻ mạnh phải là người “nâng người khác trên đôi vai của mình” và bản thân Hộ, bằng hành động giang tay giúp đỡ Từ khi cô bị phụ bạc, đã hiện thực hóa nguyên tắc sống ấy. Trong nghề nghiệp, Hộ nuôi hoài bão văn chương và nhân vật hiểu rõ văn chương chân chính đòi hỏi những phẩm chất rất cao như thế nào. Nhưng vì cuộc sống khốn quẫn, những giá trị đáng ra phải cộng hưởng với nhau lại nảy sinh xung đột.
Trên thực tế, nhân vật của Nam Cao đã lựa chọn lẽ sống tình thương thay cho khát vọng sự nghiệp. Hộ chấp nhận gác lại tham vọng văn chương, chấp nhận viết văn để kiếm tiền - điều mà trước đó anh vốn không nghĩ đến. Thứ văn chương dùng để mưu sinh ấy khiến Hộ đành phải dễ dãi với ngòi bút của mình, viết nhanh, viết nông không thể cầu toàn với chữ nghĩa như trước kia nữa, nhờ đó, mới có thể nuôi sống được gia đình. Sự lựa chọn này có thể trấn an nhân vật về mặt đạo đức nhưng hoàn toàn không đem đến sự thanh thản trong nội tâm của Hộ. Bởi khát vọng văn chương là thứ khiến Hộ có thể khẳng định ý nghĩa đời sống của bản thân như một cá nhân, điều mà bổn phận đạo lí không thể khỏa lấp trọn vẹn. Đấy chính là lí do khiến Hộ luôn dằn vặt trước trang viết của mình. Có một khía cạnh đáng chú ý ở đây: thực ra xã hội không phê phán Hộ vì anh viết dở, viết nhật; thứ văn chương mà Hộ tự thấy tầm thường ấy vẫn được in báo, vẫn được trả nhuận bút. Nhưng chính sự tự ý thức của Hộ đã khiến nhân vật không thể yên tâm với sự dễ dãi của xã hội với các giá trị tầm thường. Anh thấy mình không phải đang tạm gác lại khát vọng sự nghiệp mà là mình đang “hỏng”, đang phản bội chính những lí tưởng mà mình đã xác định. Trong nội tâm của Hộ, thường xuyên có một phiên toà, nơi chính anh tự kết án chính mình bằng những ngôn từ nặng nề nhất như “khốn nạn”, “cẩu thả”, “bất lương”, “đê tiện”. Nương theo dòng suy nghĩ của nhân vật, người kể chuyện như giúp người đọc “quan sát cận cảnh” xung đột nội tâm thường trực ở Hộ. Hình thức lời trần thuật nửa trực tiếp với các từ được chú ý lặp lại, các câu hỏi mang tính chất tự vấn đóng vai trò quan trọng trong việc diễn tả sự tự đay nghiến cũng như nỗi thất vọng của nhân vật về chính mình: “Khốn nạn! Khốn nạn Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì hắn chính là thằng khốn nạn! [...] Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt phèo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có... Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt”.
Nhưng bi kịch ở Hộ không phải chỉ nằm ở chỗ sự nghiệp rơi vào bế tắc. Sự xuống dốc trên con đường văn chương của Hộ kéo theo sự tha hoá về nhân cách của nhân vật. Hộ biến nỗi bất mãn về bản thân thành những hành động bạo hành mà vợ con của mình – những người trước đó anh từng coi là đối tượng để thực hành lẽ sống tình thương - phải hứng chịu. Không chỉ phản bội lại lí tưởng văn chương Hộ còn tự giẫm đạp lên lí tưởng sống của mình. Trải nghiệm của Hộ sau trận say rượu – sự kiện duy nhất được miêu tả trong truyện ngắn này – không phải là trải nghiệm lần đầu của nhân vật. Nhớ lại những gì mình đã làm trong cơn say, Hộ xấu hổ và ăn năn, lại sẵn sàng tự kết án mình bằng ngôn từ nặng nề nhất có thể trước mặt Từ: “Anh... anh... chỉ là... một thằng khốn nạn!..”. Và Từ, hẳn đây cũng không phải là lần đầu tiên và duy nhất, từ chối vai trò là quan tòa khi nghe lời xưng tội của Hộ. Ngay lập tức, cô đặt mình vào vai trò của người bào chữa cho Hộ khi nói Hộ “chỉ là một người khổ sở”. Và rồi cuối cùng cô tự kết án mình mới chính là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Hộ: “Chính vì em mà anh khổ...”. Tất cả những gì Từ có thể làm chỉ là chịu tội thay. Kẻ xưng tội thì không được thừa nhận tội; kẻ được quyền kết tội thì không chỉ từ chối quyền đó mà còn cả thẩm quyền tha thứ. Câu chuyện kết thúc nhưng những vấn đề trong đời sống của cả Từ và Hộ vẫn cứ ngổn ngang, hầu như không thể giải quyết.
Người kể chuyện ở đây giữ một khoảng cách nhất định với nhân vật. Khoảng cách ấy được thể hiện rõ nhất qua giọng điệu trần thuật. Người kể chuyện có những đồng cảm nhất định với cuộc đấu tranh nội tâm của Hộ, ghi nhận sự chân thành trong thái độ ăn năn, biết lỗi của nhân vật sau trận say. Nhưng mặt khác, người kể chuyện cũng thể hiện thái độ nghiêm khắc đối với Hộ qua cách dùng đại từ nhân xưng “hắn” để gọi nhân vật, qua giọng điệu kể hàm chứa sự mỉa
mai ngầm đối với cơn cao hứng của Hộ khi tuyên ngôn về văn chương giữa cuộc say, và nhất là qua cách miêu tả tiếng khóc của nhân vật. Khoảnh khắc Hộ bật khóc như “nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh” chính là khoảnh khắc nhân vật đối diện với sự thật của chính mình, rằng Hộ không phải là “kẻ mạnh” như anh từng nghĩ, rằng thay vì nâng đỡ Từ, một người yếu đuối như anh từng tâm niệm thì hoá ra chính anh lại đang giày vò Từ, bắt Từ chịu thêm những tổn thương. Và liệu rằng những triết lí sống tưởng như đẹp đẽ mà Hộ muốn vươn đến đã thoát ra khỏi chủ nghĩa vị kỉ của một cá nhân vốn được mặc định là “kẻ mạnh”? Có thể nói, người kể chuyện đã thay mặt Nam Cao để làm cái việc mà ông quan tâm nhất khi cầm bút. Đó là “đau đáu nhìn vào cái nhân cách”, là việc “săn đuổi chính mình đầy ráo riết” và cũng là “săn đuổi cái nhân cách con người ta nói chung” (chữ dùng của Nguyễn Minh Châu).
Đời thừa là một truyện ngắn giàu tính phê phán. Ngoài phê phán việc con người, nhất là người trí thức, có thể đánh mất mình như thế nào, truyện ngắn của Nam Cao còn muốn phê phán những thiết chế xã hội đã đẩy các giá trị lớn vào tình thế xung đột với nhau, nơi cái tầm thường được biện bạch bằng lí do hoàn cảnh, trong khi đó những lí tưởng, khát vọng lớn của con người lại bị hi sinh, bị tha hoá bởi những thứ tưởng như nhỏ nhặt nhất trong đời thường, khiến sự sống của con người trở nên mất ý nghĩa. Sự phê phán của Nam Cao là biểu hiện của một “tấm lòng thương đời nhất” và một “con mắt nhìn đời ác nhất”2), nói như Nguyễn Minh Châu. Tất cả điều này gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc nhờ một nghệ thuật tự sự có chiều sâu, giàu sức thuyết phục.
Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện - mẫu 9
Truyện ngắn Trái tim Đan – Kô của Mác-xim Go-rơ-ki là một tác phẩm chứa đầy cảm xúc và vô cùng sâu sắc. Nó nêu bật về tình yêu thương và sự hy sinh cao cả của nhân vật chính, cũng chính là một người anh hùng.
Tác giả sử dụng những chi tiết tường minh và hình ảnh mạnh mẽ để truyền tải thông điệp sâu sắc về lòng nhân ái và ý nghĩa cuộc sống. Ngay từ đầu câu chuyện, tác giả đã tạo nên một bối cảnh u ám với thảo nguyên và khu rừng rợp bóng tối. Cảnh tượng này tượng trưng cho khó khăn và sự tuyệt vọng mà những nhân vật đang phải đối mặt. Trong hoàn cảnh này, Đan – Kô xuất hiện như một anh hùng, một người mang trong mình lòng yêu thương và hy vọng. Anh ta đứng lên để dẫn dắt những người khác đang chìm trong bóng tối vượt qua khó khăn, đánh bại nỗi sợ hãi và tạo ra một con đường mới cho cuộc sống của họ. Chàng đã phá bỏ đi bóng tối và tuyệt vọng bao phủ những con người ấy, đưa họ trở về với ánh sáng.
Tuy nhiên, điều đáng chú ý là hoàn cảnh khi Đan – Kô gặp phải sự phản đối và chỉ trích từ phía những người anh em cùng bản mình. Họ trách móc và lên án chàng ta, đẩy Đan – Kô vào tình thế khó khăn và đau khổ khi đứng trước sự lựa chọn phản bội của những người thân thiết. Tuy nhiên, thay vì trả đũa hay tức giận, Đan – Kô thể hiện sự vị tha và tình yêu thương vô điều kiện đối với những người này. Chàng nhìn thấy sự bất hạnh của họ và tin rằng việc còn sống là sự cứu rỗi cho cuộc sống của bọn họ.
Một điểm đáng chú ý khác trong truyện là hành động hy sinh đầy tình người của Đan – Kô. Anh ta tự tay rạch lồng ngực mình, lấy trái tim làm ngọn đuốc để chỉ đường cho đoàn người. Hành động này tượng trưng cho sự hy sinh và tình yêu thương không điều kiện của Đan – Kô đối với những người anh em của mình. Ngọn lửa trong trái tim Đan – Kô không chỉ dẫn dắt họ thoát khỏi sự tăm tối, mà còn mang lại hy vọng và sự sống mới cho cuộc sống của họ. Mặc dù Đan – Kô đã cống hiến tất cả, thậm chí là hy sinh cả tính mạng nhưng cuối cùng anh ta đã chết mà không có ai nhớ đến. Điều này phản ánh sự vô tâm và thiếu tôn trọng của những người anh em cùng bản mình, vì họ vốn dĩ là những kẻ vô ơn. Tuy nhiên, tác giả không chỉ đề cao hành động của Đan – Kô mà còn thể hiện được sự đối lập giữa người anh hùng và những kẻ vô ơn. Từ đó, dường như ông đã khám phá ý nghĩa của cuộc sống và sự liên kết của con người. Truyện tạo ra một câu hỏi sâu sắc: trong cuộc sống khi chúng ta đối mặt với khó khăn, liệu chúng ta có thể giữ vững trái tim yêu thương và lòng tốt mà không cần đền đáp?
Tác phẩm Trái tim Đan – Kô của Mác-xim Go-rơ-ki là một câu chuyện đầy cảm xúc và ý nghĩa. Nó truyền tải thông điệp về lòng yêu thương và sự hy sinh cao cả, cũng như tầm quan trọng của việc giữ vững tình người và lòng tốt trong cuộc sống. Câu chuyện này làm cho chúng ta suy ngẫm về những giá trị sống và mối quan hệ giữa con người trong cuộc sống hiện thực.
Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện - mẫu 10
Nguyễn Khải là nhà văn giỏi quan sát chuyện đời, chuyện người, say mê giảng giải, triết lí về mọi sự bằng một tư duy phân tích sắc sảo. Nét độc đáo ở những trang viết của ông là mối quan hệ giữa "chuyên người" với "chuyện mình", giữa "chuyện đời" với "cái tôi" trải nghiệm chặt chẽ đến mức luôn có xu hướng làm thành một kết cấu trần thuật kép: vừa "phản ánh" vừa "biểu hiện", vừa nhằm "tác động" vừa "tự nhận thức", vừa xác định chân lí theo kinh nghiệm cá nhân vừa muốn bàn bạc, đối thoại với những kinh nghiệm khác.
Chính cái tôi tác giá, một cái tôi có khá năng in đậm dấu ấn lên câu chuyện (rất thông minh khi phát hiện và lật xới vấn để, dễ dàng nắm bắt được trạng thái tinh thần thời đại phía sau những ứng xử thường ngày, kể chuyện mà cứ như đang suy nghĩ - luận bàn về câu chuyện với rất nhiều đúc kết khôn ngoan) đã giúp Nguyễn Khải khẳng định vị trí chắc chắn trong tâm trí những bạn đọc yêu thích thứ văn chương giàu chất trí tuệ mà vẫn tựa vững trên tấm lòng trìu mến, thân thiện đối với con người. Khi tự chia hành trình sáng tác của mình thành hai giai đoạn (trước năm 1978 và từ 1978 trở đi), nhà văn không chỉ muốn nói đến mối quan hệ giữa "con người" và "thời thế", đến những sự điều chỉnh cần thiết và tất yếu trong thế giới quan của ông ở giai đoạn thứ hai, mà còn gián tiếp triết lí về cái hữu hạn của nghệ thuật trước cái vô hạn của đời sống. Từ đây ông sẽ lấy triết lí này làm nguyên tắc sáng tạo: khước từ cung cách độc thoại của kiểu nhà văn đứng cao hơn bạn đọc để làm một người đề xuất vấn đề, gợi mở đối thoại, chia sẻ cảm xúc và chiêm nghiệm riêng trên tinh thần tôn trọng bạn đọc, trao cho họ quyền phán xét chân lí. Nếu trước năm 1978, Nguyền Khải chủ yếu theo đuổi cảm hứng chính luận và tập trung vào các vấn đề chính trị - xã hội thì từ năm 1978 về sau, ông dành mối quan tâm chủ yếu cho con người, trước hết là con người cá nhân, có thân phận, danh phận, bổn phận cụ thể đang đan dệt nên cái dòng cháy sôi sục, ồn ào, đầy biến động của cõi nhân gian. Một người Hà Nội, được hoàn thành ngày 19 - 1 - 1990 (theo ghi chú cuối truyện) là một truyện ngắn nghiêm túc, một cuộc đối thoại cởi mở về con người: Phải chăng bản lĩnh cá nhân, lòng tự trọng của mỗi cá nhân là cốt lõi của nhân cách? Phải chăng sự sâu sắc, thâm trầm, lối sống sang trọng, lịch lãm, có vãn hoá làm nên vẻ đẹp của người Hà Nội?
Được viết trong bối cảnh xã hội Việt Nam trên con đường đổi mới đang biến chuyên mau lẹ, nhiều cuộc "đụng độ" gay gắt giữa hai hệ giá trị cũ - mới xảy ra khi cơ chế kinh tế thị trường phát huy ảnh hướng rộng khắp và quan hộ giao lưu đa chiều đem đến nhiều kinh nghiệm mới mẻ, làm mất giá nhiều kinh nghiệm cũ, Một người Hà Nội là nơi tác giả gửi gắm những điều mình chiêm ngẫm và trăn trở về khả năng bảo tồn những giá trị mà ông tin là tinh tuý nhất của người Việt: Văn hoá Thăng Long, Tràng An. Liệu mảnh đất ngàn năm văn hiến ấy trước cơn lốc kinh tế thị trường có đánh mất gương mặt tinh thần sang trọng, hào hoa được hun đúc suốt trường kì lịch sử? Ma Văn Kháng khi viết Mùa lá rụng trong vườn (1985) cũng đã ít nhiều chạm đến câu hỏi này. Cùng thời điểm đó, đạo diễn Trần Văn Thuỷ làm bộ phim tài liệu nghệ thuật Hà Nội trong mắt ai đã không giấu cái nhìn phê phán có tính cảnh báo đối với những biểu hiện phi ván hoá cúa thủ đô đang hàng ngày bày ra ngay trước mắt du khách (bộ phim đem lại những tiếp nhận đa chiều). Một người Hà Nội có thể xem như một tiếng nói đối thoại sắc sảo Nguyễn Khải góp vào mối quan tâm chung của những ai nặng lòng với vẻ đẹp kinh kì (ý hướng đối thoại rất rõ vì nhà văn đã đưa truyện này vào một tập truyện có tên Hà Nội trong mắt tôi, in năm 1995). Người đọc dễ dàng nhận ra Nguyễn Khải dành cho Hà Nội một tình yêu và niềm tự hào sâu sắc đến thế nào và ông cũng coi trọng truyện ngắn Một người Hà Nội thế nào. Với ông, Hà Nội là "đất kinh kì" (tên một truyện khác trong tập), là nơi hội tụ tinh hoa cả nước: "cái nước sông Hồng, cái gió sông Hồng nó lạ lắm, nó làm ra văn chương Bắc Hà, văn chương Hà Nội". Mà đâu chỉ văn chương! Chọn một người phụ nữ như nhân vật bà Hiền làm một "lát cắt" nhỏ về Hà Nội, ông muốn kí thác tình yêu bền chặt và sự kì vọng đối với truyền thống văn hoá dân tộc vào những con người luôn luôn biết cách nuôi dưỡng "nếp nhà". Chính nhờ họ mà nét đẹp riêng của kinh kì qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử vẫn nguyên cốt cách, không gì có thể làm phiêu tán, phôi pha. Tính thời sự của tác phẩm do vậy lại gắn với nhu cầu đối thoại về văn hoá Hà Nội. Người như bà Hiền có phải là hiện thân của cái văn hoá ấy không?
Bà Hiền - điểm tựa chính cho chủ đề tác phẩm, được khắc hoạ nổi bật ở cả hai mặt: tính cách và tư tưởng. Qua điểm nhìn của người kể chuyên xưng "tôi", tính cách bà Hiền hé lộ dần, một tính cách "động" mà hoá ra ổn định từ đầu đến cuối. Tư duy nghiên cứu đã đảm bảo cho câu chuyên liên tục là những khám phá bất ngờ, "níu chân" bạn đọc. Từng bước hoàn thiện chân dung bà Hiền theo dòng chảy thời gian với bao đổi thay thời cuộc, mỗi lần gặp gỡ nhân vật là thêm một lần người kể chuyện ngỡ ngàng. Tác phẩm xâu chuỗi bốn tình huống nhận thức, cố ý tạo nên mạch truyện tưởng lan man, ngẫu hứng mà kì thực đan xen uyển chuyển, chặt chẽ, kết dính thành một hành trình nhận thức từ thấp đến cao (tình huống bà Hiền chọn chồng, tình huống bà bị "ngờ" là tư sản, tình huống các con bà tình nguyện đi chiến đấu và tình huống bà phải bày tỏ thái độ trước lối sống thủ đô thời kinh tế thị trường). Cảm quan lịch sử ở đây rất đậm nét. Mỗi tình huống tương ứng với một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, những phát hiện của người kể chuyện về bà Hiền là mạch phát triển tuần tự: từ hoài nghi đến nể phục, từ e ngại đến tin cậy, từ tò mò đến cảm động, trân trọng. Tình huống nhận thức trong Một người Hà Nội khác với trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu ở chỗ: không gay cấn, éo le, người kể chuyện không "bừng ngộ" mà "tiệm ngộ" dần dần cùng độ dài thời gian suy tư, chứng nghiệm, giống như một mạch ngầm văn bản. Có thể xem bà Hiền như chứng nhân cho những biến thiên lịch sử kéo dài từ trước Cách mạng tháng Tám đến thời kì đất nước tưng bừng công cuộc đổi mới. Qua bao biến động dữ dội, Bà Hiền vẫn vững vàng một bản lĩnh sống, đầy trách nhiệm công dãn mà không khi nào đánh mất mình "một đời không để bị ai cám dỗ". Bà luôn lấy lòng tự trọng làm nguyên tắc xử thế, lấy văn hoá làm thước đo giá trị sống: "là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống luỳ tiện, buông tuồng". Bà là một "thể phách" và một "tinh anh" của Hà Nội, vượt lên mọi biến suy của thời gian, mọi nông nổi của thói thời thượng để người đọc được nhẹ nhõm mãi niềm tin "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài - Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An" (ca dao).
Vẻ đẹp "người Hà Nội" trong bà Hiền thể hiện trước hết ở việc gìn giữ "nếp nhà". Gốc gác Hà Nội cho bà một căn cốt vững vàng từ nền giáo dục gia đình. Cha mẹ bà đã là bằng chứng cho việc người ta có thể giàu có mà vẫn lương thiện, giàu có mà không "trọc phú". Cô Hiền thuở trẻ được cha mẹ cho mở phòng tiếp khách văn chương (gọi là xa lông văn học). Với ai đó thì đây là cơ hội để lấy được tấm chồng danh giá hoặc chỉ đơn giản, có dịp phô diễn sự thức thời (kiểu bà Phó Đoan xây sân quần trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng chẳng hạn), nhưng với cô Hiền và gia đình cô, đấy là nhu cầu giao tiếp để mở mang tầm mắt, để hấp thụ thêm cái tao nhã cứa văn chương nghệ thuật. Thế nên việc cô Hiền chọn chồng đã khiến tất cả người quen biết bất ngờ. Họ bất ngờ vì họ tư duy theo thói thường. Cô Hiền đứng ngoài cái thói thường ấy. Có lẽ cô nhắm tới một cuộc hôn nhân đảm bảo duy trì truyền thống "giàu có lương thiện" của gia đình và cô phải đóng vai người "nội tướng" để giữ vững "nếp nhà". Đấy là sự lựa chọn của bản lĩnh cá nhân và của tình yêu Hà Nội sâu xa trong máu thịt. Những năm Hà Nội bị tạm chiếm, gia đình cô không tản cư (điều này gây ra sự ngờ vực ở không ít người về lập trường yêu nước của cô) nhưng thực chất cô không tản cư chỉ vì "không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất nào khác". Một tình yêu kiên định bắt nguồn từ một niềm tin vững chắc vào sự ngay thẳng (nhưng có lẽ cũng vì vậy mà cực đoan nghĩ rằng chỉ ở Hà Nội mới duy trì được lối sống đẹp?)
Khi Hà Nội được giải phóng, khi "văn hoá thời chiến", "văn hoá bình dân" lên ngôi, bà Hiền càng có ý thức nuôi dưỡng dưới mái nhà mình nét thanh lịch vốn có, từ cách ăn, cách mặc đến cách xưng hô. Theo bà, đấy cũng là văn hoá, bà muốn các con bà nhận ra "văn - hoá - người" ngay từ những chuyện nhỏ nhặt, thường tình nhất: "Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ, còn sau này muốn sống ra sao là tuỳ". Bà không uốn mình theo lối ứng xử dễ dãi của số đông. Cái sâu sắc ở người phụ nữ, người mẹ, người Hà Nội ấy không phải ai cũng nhận ra. Nhân vật "tôi" lúc đầu đã nghĩ bà "đích thị là tư sản" nên bảo vợ con "tránh xa" để khỏi liên luỵ, rồi sau đó lại cho bà là kẻ thủ cựu, cố chấp, không hợp thời. Có lẽ mãi sau này, khi gặp những kẻ không còn khả năng "biết xấu hổ", không còn lòng tự trọng mà chỉ còn sự trăng tráo thô bỉ, "tôi" mới thật hiểu trí lự của bà Hiền. Có một người mẹ như thế, tất sẽ có những người con "không sống bám vào sự hi sinh của bạn bè", tình nguyện đăng kí xin đi đánh Mĩ. Trong bữa tiệc gia đinh mừng ngày Dũng trở về từ chiến trường miền Nam, người - con - trai - bà - Hiền đã nói rất ít về những chuyện vui, những chiến công:
"Anh nói rằng trong nửa năm nay, anh không ngớt nghĩ về những người từ Hà Nội ra đi cách đây đúng mười năm. Sáu trăm sáu mươi người. Bây giờ còn lại khoảng trên dưới bốn chục" (Hà Nội của anh đã không tiếc máu xương cho Tổ quốc hoà bình, thống nhất). Rồi anh kể về tình yêu mẹ của người đồng đội tên là Tuất, về sự can đảm phi thường của mẹ Tuất lúc anh đến báo tin Tuất đã hi sinh. Niềm vui được sống trở về không làm chàng trai còn rất trẻ ấy quên chia sẻ nỗi đau của người khác. "Chất Hà Nội" từ thế hệ người mẹ như bà Hiền, như mẹ Tuất đang được chuyển giao thật tự nhiên sang thế hệ những người con như Dũng, Tuất. (Đối diện với họ, nhân vật tôi phải giật mình bởi những nhận xét ồn ào, vội vã: "tôi đã nói điều gì thất thố?").
Để có thể gìn giữ nghiêm cẩn nề nếp gia phong, người phụ nữ đương nhiên phải đóng vai trò "nội tướng" (tục ngữ có câu "Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm"). Bà Hiền thực hiện tư tưởng nam nữ bình quyền theo cách riêng: dứt khoát mà vẫn thừa tinh tế. Bà chủ động chấm dứt sinh đẻ với nhận thức thật đúng đắn: sinh con nghĩa là phải nuôi dạy con nên người, phải chuẩn bị chu đáo cho mỗi đứa con có khả năng sống tự lập "khỏi phải sống bám vào anh chị" (lại vẫn lấy nguyên tắc tự trọng làm chuẩn). Bà chê trách người cháu: "Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng". Bà điều hành gia đình bằng những phép tính khôn ngoan, nhìn xa trông rộng "và luôn tính đúng vì không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô. Không có sự lãng mạn hay mơ mộng vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ". Như vậy chồng và con bà không nể trọng sao được? Có một chi tiết nhỏ tưởng bình thường mà thật đắt giá: thấy cậu con trai xưng hô không hợp với quan hệ gia đình (gọi anh là đồng chí), bà "cau mặt gắt" nhưng khi ông chồng cũng phạm chính lỗi đó, bà chí "thở dài, quay người đi". Một người vợ biết tôn trọng chồng là biết nhượng bộ, nhường nhịn đúng lúc. Nghiêm khắc, kĩ lưỡng uốn nắn con cái từng li từng tí, nhưng bà bao giờ cũng hiểu con và luôn biết dành cho chúng quyền tự quyết định. Bà đảm đang, tháo vát mà không ích kỉ lạnh lùng. Tình nghĩa thuỷ chung của vợ chồng chị vú em đối với gia đình bà nói lên điều đó.
Nhưng một người "nội tướng" mẫu mực chúng ta có thể gặp ở nhiều nơi. Cái làm nên tính cách riêng của bà Hiền, khiến bà - một phụ nữ bình thường trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam - trở nên cá biệt, phi thường chính là bản lĩnh cá nhân, sự lịch lãm và lối sống sang trọng. Dù có lúc bị ngờ vực, bị soi xét bằng cái nhìn định kiến, bao giờ bà Hiền cũng vẫn là mình - một cái tôi khôn ngoan, giàu tự trọng, biết người biết ta. Thuở trẻ trung, nhan sắc hơn người, bố mẹ lại giàu có, cô Hiền đã không buông mình cho thói hợm hĩnh, đua đòi ăn chơi hưởng lạc như vô số kẻ tầm thường khác. Sau này người phụ nữ ấy sẽ tạo lập tổ ấm của mình bằng chính bàn tay tài hoa, chăm chỉ và cái đầu giỏi tính toán, cho nên gia đình bà lúc nào cũng giữ được phong cách sống đàng hoàng, ấm áp. Bà "có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả" (giữa những cái nhìn kì thị với sự giàu sang cực đoan đến mức cháu cũng nghi ngại cô, thì phải có bản lĩnh lớn lắm mới có thể ung dung mà sống như bà Hiền). Không bao giờ xu thời, nhưng cũng không quay lưng với thời cuộc, bà tự giác điều chỉnh công việc làm ăn mỗi khi cơ chế thay đổi. Tỉnh táo và công bằng, bà phê phán sự lạc quan tự mãn thái quá của nhiều người trong những ngày đất nước mới độc lập: "Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ!" (có phải lại thêm một cái giật mình tự phản tính của tác giả?). Bà không tán thành quan điểm "không khuyến khích cá nhân làm giàu" của chế độ mới nhưng không phản kháng mà cố gắng thu xếp sao cho gia đinh mình vừa không vi phạm luật pháp vừa không đánh mất truyền thống riêng. Một câu nói nhẹ nhàng giải thích việc bà không bị "học tập cải tạo" cho thấy bà rất công tâm: "các bà không biết nhưng Nhà nước lại rất biết". Con người ấy luôn độc lập trong nhìn nhận đánh giá và rất ít vướng vào định kiến.
Thông minh, thức thời, tháo vát,... đó là tính cách của bà Hiền trong cuộc sống đời thường. Tính cách ấy rất đáng để nể phục. Nhưng bản lĩnh ứng xử trước thời cuộc (luôn "là mình" mà không thiếu trách nhiệm với cộng đồng, tính toán khôn ngoan mà vẫn đằm thắm một tấm lòng đôn hậu) mới thực sự là những giá trị làm nên nhân cách của bà, làm nên văn hoá sống, làm nên cái đẹp. Khi hàng trăm thanh niên ưu tú của Hà Nội lên đường đánh đế quốc Mĩ, người con trai cả của bà Hiền tình nguyện nhập ngũ, bà không ngăn cản con, cũng không nhân đó mà khoe lòng yêu nước. Bà trả lời thẳng thắn "tao đau đớn mà bằng lòng". Trong văn học thời chiến tranh của ta hình như chưa một bà mẹ nào phát biểu thế cả. Nguyễn Khải đã rất sâu sắc để cho nhân vật công khai đối thoại với những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa ái quốc. Người đọc nào yêu chuộng sự trung thực sẽ rất cảm động vì tin vào cuộc đấu tranh nội tâm - dù chỉ được hé mở qua một câu nói - chắc chắn nhiều giằng xé mà người mẹ - người công dân như bà Hiền phải trải qua. Bà mẹ nào có thể vui khi đứa con phải đi vào nơi hiểm nguy, nhưng bà hiểu con "nó dám đi cũng là biết tự trọng". Bà không che giấu niềm kiêu hãnh: "tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè". Với việc ra đi của đứa con thứ hai, bà vẫn ứng xử trên nguyên tắc tự trọng và niềm kiêu hãnh như vậy vì theo bà, ngăn cản con là "bảo nó tìm đường sống để các bạn phải chết", "đấy cũng là cách giết nó". Bà đặt danh dự cao hơn sự sống, mất danh dự tức là chết về tinh thần, nhân phẩm.
Mang đậm cốt cách Hà Nội, trong sâu thẳm con người bà Hiền là cái tâm linh của Hà Nội. Tâm linh ấy được bồi đắp trên truyền thống của mảnh đất nghìn năm văn hiến. Khi con người tin rằng mình đang giữ gìn một giá trị, thì tự khắc nó tìm được khả năng đề kháng trước mọi biến suy và cám dỗ. Bà Hiền ý thức mình là người Hà Nội nên cái mà bà tha thiết bảo vệ và phát huy là cái chất Hà Nội. Bà không chỉ dạy dỗ con cái sống có văn hoá mà còn nỗ lực tạo dựng một môi trường văn hoá trong gia đình (mỗi tháng đều tổ chức một bữa ăn bạn bè làm sống dậy những nét sinh hoạt và giao tiếp sang trọng, đẹp đẽ như truyền thống kinh kì). Giữ nếp nhà là cách để giữ nếp người. Sau bao nhiêu biến thiên của lịch sử, giữa thời buổi kinh tế thị trường đầy tâm lí thực dụng mà phòng khách nhà bà Hiền - thế giới riêng của bà - vẫn giữ nguyên phong cách lịch lãm, quý phái của hơn nửa thế kỉ trước với tấm bình phong bằng gỗ chạm, bộ sa lông gụ, sập gụ, tủ chùa, lọ men Thuý hồng, lư hương đời Hán, liễn hấp sâm Giang Tây,... Những thứ đồ trưng bày đều là cổ vật quý giá, mang trong mình tính trang nghiêm, cổ kính của nhiều tầng văn hoá, biểu hiện cốt cách văn hoá của chủ nhân. Căn phòng khách có thể coi là biểu tượng cho con người có thế giới tâm hồn thanh sạch, luôn bình tâm trước mọi đổi thay. Và con người - chủ nhân của không gian ấy - cũng là một "cổ vật" hay một giá trị không phai nhoà của một thời vàng son. Hình ảnh bà Hiền đang lau đánh chiếc bát thuỷ tiên tưởng như đơn giản mà chứa đựng tất cả cái không khí Tết Hà Nội đặc trưng, đó sẽ là hình ảnh chắc chắn trong tương lai con người hiện đại phải nặng lòng hoài nhớ khi cái nhịp sống công nghiệp và xu hướng đô thị hoá ào ạt có nguy cơ tước đoạt hết những khoảng không gian yên tĩnh để di dưỡng tinh thần. Nhà văn đã dự cảm trước nguy cơ đó khi nêu câu hỏi: “Dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn buôn bán đủ thứ mà lại không buôn được vài ngàn củ thuỷ tiên", "ví thử có thuỷ tiên liệu còn có người biết gọt tỉa thuỷ tiên?". Và còn đáng buồn hơn nếu cách sống ồ ạt xô bồ đã khiến con người không còn biết bình tĩnh mà thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một giỏ thuỷ tiên. Phòng khách nhà bà Hiền là thế giới thực nhưng cũng đầy tính tượng trưng. Bà vẫn tỉnh táo, thức thời, có điều bà đã vượt lên trên thói thường nhờ cái tầng văn hoá tâm linh vô hình mà ám ảnh. Mối bận tâm của bà bây giờ có thể chỉ là chuyên cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn. Cây si ấy gợi liên tưởng đến sức sống trường tồn của tự nhiên mà cũng là sự hữu hạn của tự nhiên. Chính ý thức con người (việc làm kịp thời của Sở Văn hoá Hà Nội) sẽ khắc phục tính hữu hạn đó. Cây si nối quá khứ với hiện tại, là hoá thân của linh hồn Hà Nội, là niềm tin của người Hà Nội vào những giá trị bất diệt. Cuộc đời bà Hiền cũng như câu chuyện về cây si đã làm sáng tỏ chân lí mà nhà văn tâm niệm: "nói cho cùng, để sống được hằng ngày, tất nhiên phải nhờ vào những giá trị tức thời. Nhưng sống cho có phẩm hạnh, có cốt cách nhất định phải dựa vào những giá trị bền vững”.
Câu chuyện kết thúc khi những hoài nghi, bất bình của người kể chuyện vể cách ứng xử thô bạo ông gặp trên đường phố Hà Nội đã được hoá giải bởi những chiêm nghiệm của bà cô "ngoài bảy mươi tuổi" mà vẫn "giỏi quá", "khiêm tốn và rộng lượng quá". Bước ngoặt nhận thức khiến người kể chuyện, trong niềm hi vọng lạc quan, đã nảy ra một so sánh thật đẹp: "Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ". "Hạt bụi vàng" nhỏ bé nhưng là tinh tuý tạo nên ánh vàng "sáng chói" cho đất kinh kì. Nó cũng trở thành biểu tượng cho con ngựời Hà Nội: bình dị mà lớn lao, hữu hạn về thân xác mà vô hạn về tâm hồn. Trong cảm hứng ngợi ca, tự hào, ngòi bút Nguyên Khải không khỏi thoáng gợn chút rưng rưng tiếc nuối (hay một nỗi lo âu vẻ viễn cảnh phôi pha cái đẹp cổ truyền trước dòng chảy cuồn cuộn của dời sống thời kinh tế thị trường), phải chăng vì thế mà ông mơ ước: "Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng!".
Một người Hà Nội rất đậm dấu ấn của tư duy tiểu thuyết: cốt truyện được nới lỏng, ít sự kiện, biến cố nhưng được kết cấu thành nhiều tình huống nhận thức. Sau mỗi lần gặp gỡ, người kể chuyện lại có thèm một phát hiện mới, một nhận thức mới về bà Hiền, để cuối cùng người đọc tự hoàn chỉnh chân dung người phụ nữ Hà Nội ấy. Thường xuyên tác giả đặt một sự việc, một vấn đề dưới nhiêu cách nhìn (khi công khai, khi ngầm ẩn), biện pháp đối sánh này là sản phẩm của tư duy dân chủ trong tiểu thuyết, tạo ra quan hệ bình đẳng giữa nhà văn và bạn đọc, đưa đời sống vào nhiều "toạ độ" đánh giá để mời gọi bạn đọc tham gia đối thoại. Bà Hiền có phải người Hà Nội điển hình không? Cách sống của bà, những ứng xử của bà có gì hạn chế?,... tất cả thực ra vẫn còn là những giả định, hình dung, những câu hỏi ngỏ vì tác giả đã luôn nhấn mạnh vào cái nhìn chủ quan của người kể chuyện. Như vậy, tôn trọng kinh nghiệm cá nhân không có nghĩa người đọc phải coi kinh nghiệm ấy là chân lí. Truyện không sa vào lí luận nặng nề hay nhàm tẻ mà có sự đan xen giọng điệu khá linh hoạt: đằng sau / ẩn trong giọng của người kể chuyện, thấp thoáng có những giọng khác.
Hình tượng người kể chuyên ưa triết lí, suy ngẫm, lại xưng "tôi", thậm chí tự tiết lộ tên mình là Khải (lời con trai bà Hiền: "Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến"), nghĩa là mang rất nhiều chi tiết tiểu sử tác giả, đã gợi cảm giác thân mật và tin cậy, rất thích hợp cho cuộc giao tiếp cởi mở giữa nhà văn với người đọc. Qua hình tượng người kể chuyện, hiển hiện một Nguyễn Khải có nhu cầu tự vấn, tự nhận thức lại về nhiều vấn đề tưởng đã là chân lí. Cảm hứng triết luận nghiêm túc không hoàn toàn lấn át cảm hứng tự trào - đấy là cái duyên riêng của tác giả Một người Hà Nội.
Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện - mẫu 11
Sông Hương – xứ Huế đã trở thành nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Nhưng có lẽ, chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường - một cây bút tài hoa lãng mạn, một người con thân yêu của Huế mới có thể khiến sông Hương hiện lên với vẻ đẹp toàn bích. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hoàng Phủ Ngọc Tường được coi là “Nhà văn của những dòng sông kỉ niệm”. Là con người đa tài, phóng khoáng, nhà văn đã đặt chân đến nhiều vùng đất nhưng Huế mộng mơ và dòng Hương giang huyền ảo vẫn luôn có một vị trí đặc biệt trong lòng nhà văn. Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là câu hỏi của một nhà thơ Hà Nội khi lặng ngắm dòng sông. Tác giả đã lý giải tên dòng sông bằng câu chuyện dân gian lấp lánh sắc màu huyền thoại. Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm. Nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi. Không phải một nhà hiền triết uyên thâm hay vị tao nhân mặc khách nào mà chính những người dân bình thường đã sáng tạo, bồi đắp cho mảnh đất văn hóa ấy. Cách lí giải này cho thấy tình yêu tha thiết của nhà văn dành cho cố đô Huế và sông Hương, đồng thời thể hiện lòng biết ơn, ngưỡng mộ dành cho những con người đã khai phá vùng đất này.
Trong tác phẩm, sông Hương được tác giả miêu tả với ba trạng thái ở ba chặng khác nhau gồm khi ở thượng nguồn, ở trong lòng thành phố và ngoại vi thành phố.
Trường Sơn là chứng nhân lịch sử cho những năm tháng gian lao và hào hùng của dân tộc nên ở đây, sông Hương cũng mang dáng vẻ dữ dội, mạnh mẽ tựa như một “bản trường ca của rừng già”. Sự kết hợp của những hình ảnh ấn tượng như “ghềnh thác”, “đại ngàn”, “cơn lốc”, “đáy vực” và hệ thống từ giàu tính biểu cảm “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, “mãnh liệt”, “dịu dàng”, “say đắm”, “chói lọi” diễn tả sức mạnh của dòng chảy. Bên cạnh đó, các gam màu rực rỡ như màu xanh của bóng cây, màu đỏ của hoa đỗ quyên khiến bức tranh sông Hương tràn đầy sức sống. Nhà văn so sánh dòng sông với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, cho thấy vẻ đẹp khỏe khoắn, trong sáng và phóng khoáng vô cùng. Và quả thực, giống như những thiếu nữ có tâm hồn kín đáo và thanh khiết, sông Hương chẳng chịu phô bày mình. Dòng sông bèn đóng cửa lòng mình ở cửa rừng và ném chiếc chìa khóa vào những hang đá ở chân núi Kim Phụng. Nếu ta không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội thì chẳng thể nào nắm bắt được bản chất của nó. Cái hay của Hoàng Phủ Ngọc Tường nằm ở chỗ dù miêu tả sự hào hùng nhưng giọng văn của ông vẫn đượm chất trữ tình.
Trong hành trình theo chân con sông xuôi về đồng bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra sự thay đổi tính cách của sông Hương. Toàn bộ thuỷ trình của dòng sông được tác giả cảm nhận như “một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của cô gái trong câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích”. Không gian mở ra đẹp như huyền thoại: “Phải nhiều thế kỉ đi qua, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại”. Ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Dòng sông như bừng lên sức trẻ, niềm khao khát tình yêu, không thể chờ đợi thêm để có thể gặp được Huế. “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Câu văn dài, liệt kê nhiều địa danh khiến người đọc có cảm giác được ngồi trên du thuyền mà chiêm ngưỡng danh lam xứ Huế. Nhà văn đã vận dụng những kiến thức văn hóa trên nhiều lĩnh vực, kết hợp giữa kể và tả để làm nổi bật từng bước đi của sông Hương.
Bức tranh sông Hương có thêm đường nét, có hình khối. “Sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Qua những dãy đồi phía Tây Nam thành phố, sông Hương “ánh lên những phản quang rực rỡ. Nếu ta từng yêu cái xanh mướt mát như ngọc trong khu vườn thôn Vĩ, ắt hẳn cũng sẽ say mê sắc màu “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” của sông Hương. Xanh, vàng, tím đều là những gam màu quen thuộc nhưng qua con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường bỗng trở thành đặc trưng của không gian Huế. Lạc đến những lăng tẩm, đền đài sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc “như triết lí, như cổ thi”. Lướt mình dưới chân những rừng thông u tịch, dòng sông khẽ khàng đi qua những lăng mộ của các vua chúa triều Nguyễn. Mặt nước phẳng lặng, êm ái. Tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân dài, tiếng gà gáy vẳng đến từ các thôn xóm. Không gian thật thanh bình và cổ kính. Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp khi có thể khắc họa những đường uốn lượn của dòng sông.
Nhà văn đang đóng vai một người kể chuyện, đôi khi tập trung vào những chi tiết rồi lại kéo ta trở về với hành trình chính. Đắm mình trong tiếng chuông chùa, ta giật mình nhận ra những xóm làng đã lùi xa. Sông Hương đã gặp Huế. Sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Như những người yêu nhau không thể kìm lòng trong giây phút gặp mặt, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây – Nam, Đông - Bắc” khi nhìn thấy “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vành trăng non”. Càng đến gần thành phố, sông Hương càng phô bày hết vẻ nữ tính, yêu kiều. “Khi đã giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương Uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Tiếng “vâng” ở đây chính là sự đồng điệu của hai trái tim cùng chung nhịp đập. Chứng kiến câu chuyện tình yêu giữa sông Hương và Huế, ngắm nhìn dòng sông khi đã ở trong lòng thành phố của nó, ta mới thấy hết được vẻ đẹp, sức sống “bình dị nhưng không tầm thường, trầm mặc nhưng không ủy mị, dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất đai” mà Hoàng Phủ Ngọc Tường từng ngợi ca trong “Sử thi buồn”.
Vốn sống phong phú, kiến thức uyên bác của nhà văn được thể hiện trực tiếp nhất ở đoạn miêu tả sông Hương khi chảy vào thành phố Huế. Tác giả miêu tả chi tiết những phong tục, lễ hội của người dân nơi đây.Nhưng nếu chỉ kể, tả, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới chỉ là một người ghi chép. Ông thổi hồn vào từng ánh hoa đăng bồng bềnh “chao nhẹ trên mặt nước như những vương vấn của một nỗi lòng”. Kiến thức về âm nhạc đã giúp nhà văn tìm được cách biểu đạt gợi cảm, trữ tình, lãng mạn nhất để nói về “điệu Slow tình cảm” dành riêng cho Huế của sông Hương. Thiên tình ca vẫn được tiếp tục. Ngắm dòng sông, mà ta thấy được bao triết lí về tình yêu và con người. Cách nói “dành riêng cho Huế” đem đến cảm giác dòng sông đã thay dòng để đắm mình với cảnh sắc Huế cũng như con người khi yêu bỗng biết thay đổi để hòa hợp. Bên cạnh đó, tác giả còn so sánh sông Hương với sông Xen của Pari, sông Đa – nuýp của Bu- đa – pét, dòng sông Nê-va để thể hiện tình yêu, niềm tự hào về quê hương xứ sở.
Khi xa Huế, sông Hương xiết bao thương nhớ. Con sông chẳng muốn rời xa Huế, vẫn để lại chút lưu luyến giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Như bước chân “Xăm xăm băng lối” của nàng Kiều thuở xưa, dòng sông “đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông -Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Sự thủy chung, son sắt của sông Hương dành cho Huế cũng chính là “tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
Là nhà văn của những dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nhận xét: “Sông Hồng là nỗi nhớ về phù sa của đời người, sông Cửu Long là sức mạnh đi tới biển và sông Hương như nỗi hoài vọng về một cái đẹp không thể đạt tới”. Có lẽ, sông Hương có “cái đẹp không thể đạt tới ấy” bởi nó hàm chứa trong mình rất nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử đằng sau vẻ nên thơ khiến ta mãi hoài vọng, băn khoăn. Sông Hương gắn với âm nhạc cổ điển Huế, trở thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Những âm thanh trong trẻo, quý báu trở thành di sản đã lớn lên từ những khoang thuyền, những mái chèo khuya. Điều này khiến tác giả liên tưởng tới việc có người nghệ nhân già gần thế kỷ chơi đàn, một đêm nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”.
Soi chiếu con sông từ góc độ thi ca, tác giả cho rằng đây là con sông “không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các thi sĩ”. Này là “Dòng sông trắng lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, này là “Kiếm dựng trời xanh” trong khí phách Cao Bá Quát,… Sông Hương trở thành mạch nguồn cho vô vàn sáng tạo nghệ thuật.
Trong mối quan hệ với lịch sử đất nước, sông Hương trở thành “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Nhà văn đã đưa người đọc trở về với quá khứ gian lao mà hào hùng của đất nước để cảm nhận giá trị của sông Hương. Dòng sông ấy đã có từ thời các vua Hùng, về sau lại chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc. Bước vào thế kỉ XVIII, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Khi cả nước giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, đánh đuổi thực dân Pháp, sông Hương cũng có cho mình những chiến công rung chuyển. Lời phát biểu của đại tướng Võ Nguyên Giáp đã để lại trong ta bao xúc động nghẹn ngào: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.
Bằng tất cả tình yêu của mình, nhà văn đã khắc họa dòng sông trên tất cả các phương diện. Với ngôn ngữ trong sáng, lối hành văn tài hoa lãng mạn, hình ảnh phong phú, liên tưởng đặc sắc, kết hợp hài hoà giữa cảm xúc và trí tuệ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết nên bản tình ca nồng nàn về thiên nhiên và con người cố đô:
“Sao thèm một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.”
Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện - mẫu 12
Trong làng kịch hiện đại Việt Nam, bên cạnh Lưu Quang Vũ tài năng, vực dậy cả một nền văn học kịch đang trên đà tụt dốc, ta cũng không thể không nhắc đến Nguyễn Huy Tưởng một trong những nhà viết kịch và tiểu thuyết xuất sắc. Các tác phẩm của ông thường đi khai thác các đề tài lịch sử và tác phẩm Vũ Như Tô là tác phẩm nổi bật nhất. Xung đột kịch được đẩy lên đến cao trào và được giải quyết ở hồi thứ 5 “Vĩnh biệt cửu trùng đài” qua đó thể hiện quan niệm sâu sắc của ông về cuộc đời và nghệ thuật.
Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài giỏi, bị Lê Tương Dực – tên vua tàn bạo bắt xây Cửu Trùng Đài thành nơi để hắn ăn chơi, hưởng lạc. Là một người nghệ sĩ chân chính, Vũ Như Tô đã không nhận lời dù có bị hắn đe dọa sẽ giết chết. Nhưng Đam Thiềm một cung nữ đã thuyết phục được ông xây Cửu Trùng Đài. Cửu Trùng Đài xây cao bao nhiêu, lòng dân oán hận Vũ Như Tô bấy nhiêu. Lợi dụng tình thế đó Trịnh Duy Sản đã dấy binh nổi loạn. Đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” là sự tiếp nối các sự kiện đang bị đẩy lên đến cao trào đó.
Mở đầu tác phẩm là tiếng hoảng hốt của Đam Thiền, khuyên Vũ Như Tô hãy mau trốn đi. Cơn biến loạn xảy ra ở kinh thành nên tình trạng của Vũ Như Tô hết sức nguy hiểm, nhưng Vũ Như Tô lại nhất định không trốn, không nghe lời khuyên của Đam Thiền bởi “Những người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết, thì cùng phải để cho mọi người biết rằng công việc mình làm chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả ở đây, thì tôi chạy đi đâu?”. Ông hi sinh hết mình cho nghệ thuật, ông cố thủ ở lại cũng mong Cửu Trùng Đài sẽ được hoàn thiện, để tranh tinh xảo với hóa công. Nhưng ông nào biết, chính quyết định đó đã khiến ông nhận lấy cái chết oan nghiệt, đến cả lúc chết ông vẫn không thể lí giải vì sao mình phải chết.
Khi nhận lời xây dựng Cửu Trùng Đài bản thân Vũ Như Tô đã mắc phải sai lầm trong suy nghĩ và hành động. Vũ Như Tô mượn uy quyền và tiền bạc của Lê Tương Dực để thực hiện giấc mộng Cửu Trùng Đài. Nhưng tiền bạc đó chính là công sức, của cải của nhân dân, ông chỉ nhìn thấy cái bề nổi khi xây dựng xong Cửu Trùng Đài, mà không nhận ra phần sâu của sự việc. Cửu Trùng Đài càng đến ngày hoàn thiện thì mâu thuẫn giữa ông với nhân dân càng lớn dần, họ căm ghét Vũ Như Tô bởi ông đã hạ lệnh giết chết những người bỏ trốn để duy trì kỉ luật trên công trường. Đó là hành động hết sức tàn nhẫn, đặt công trình lên trên tính mạng của thợ thuyền. Vũ Như Tô đã biến thành một kẻ đáng sợ, người dân không còn thấy hình ảnh của Vũ Như Tô gần gũi với nhân dân đâu nữa. Vì xây Cửu Trùng Đài mà cuộc sống của nhân dân ngày càng cực khổ. Vũ Như Tô là một thiên tài nhưng không phải là một hiền tài. Ông không thấu hiểu nỗi thống khổ của nhân dân.
Vũ Như Tô bị đặt vào mâu thuẫn không thể hóa giải, điều hòa: một bên là khát vọng nghệ thuật, một bên là đời sống của nhân dân. Bởi vậy, cuối cùng ông đã nhận lấy cái kết vô cùng bi thảm. Vũ Như Tô bị hiểu lầm và bị kết tội: Nhân dân coi bạo chúa và Vũ Như Tô là một là hai người gây ra tội ác: “Bạo chúa đã chết, còn thằng Vũ Như Tô đem phanh thây thành trăm mảnh”. Ông không chỉ bị nhân dân kết tội mà giấc mộng cuộc đời ông, ông đã dồn biết bao tài năng và tâm sức xây dựng Cửu Trùng Đài giờ cũng rơi vào tuyệt vọng, Cửu Trùng Đài bị phá hủy. Trước cảnh tượng Cửu Trùng Đài rực cháy, Vũ Như Tô rú lên kinh hoàng, tất cả giấc mộng đẹp tan tành, sụp đổ, đó là tiếng rú kinh hoàng, sợ hãi. “Thông thế là hết, dẫn ta đến pháp trường” – Vũ Như Tô người sáng tạo cái đẹp cũng bị giết. Cái chết của Vũ Như Tô là một kết cục tất yếu vì Cửu Trùng Đài là một công trình đẹp, tuyệt mĩ nhưng nó lại là biểu hiện của cái xấu, cái ác, nên tất yếu nó sẽ bị hủy diệt. Qua đó Nguyễn Huy Tưởng cũng nêu lên mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật phải xuất phát từ cuộc sống và phục vụ con người mới có thể tồn tại nếu không nó tất yếu sẽ bị diệt vọng.
Ngoài nhân vật Vũ Như Tô, ta cũng không thể không nhắc đến Đam Thiền. Bà là một cung nữ xinh đẹp, tài năng nhưng bị bỏ rơi. Đam Thiền là người yêu cái đẹp, cái thái độ “biệt nhỡn liên tài”, chính bà là người đã khuyên Vũ Như Tô nên ở lại để xây dựng Cửu Trùng Đài điểm tô cho đất nước, cũng chính bà đã khuyên Như Tô trốn đi khi xảy ra biến loạn. Và bà tình nguyện ở lại để bảo vệ Cửu Trùng Đài bởi “tôi chết đi không thiệt hại cho đời”. Cũng như Vũ Như Tô, Đan Thiềm cũng rơi vào bi kịch vỡ mộng: hi sinh tất cả danh dự tính mạng để bảo vệ Cửu Trùng Đài nhưng cuối cùng vẫn phải chết. Đau đớn hơn trước khi chết còn phải chứng kiến cảnh Cửu Trùng Đài bị đốt phá tan tành. Người bà hết lòng bảo vệ là Vũ Như Tô cũng bị đưa ra pháp trường.
Hồi năm của vở kịch Vũ Như Tô đã được Nguyễn Huy Tưởng sử dụng ngôn ngữ kịch điêu luyện, mang tính tổng hợp cao. Nhịp điệu lời thoại nhanh, gấp gáp, sử dụng những câu văn ngắn cho thấy tình thế cấp bách. Tính cách, tâm trạng nhân vật được bộc lộ rõ nét.
Với các lớp kịch linh hoạt, tự nhiên tác giả đã tái hiện thành công hồi kịch thứ năm. Qua hồi kịch này ông gửi gắm sự cảm thông với bi kịch của Vũ Như Tô, đồng thời đặt ra vấn đề mối quan hệ hài hòa giữa nghệ thuật và con người. Không chỉ vậy xã hội cần trân trọng, nâng niu những tài năng nghệ thuật, để họ có thể phát huy tài năng của bản thân, xây dựng sự giàu đẹp cho đất nước.
Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện - mẫu 13
Hoài Thanh bắt đầu viết văn từ những năm 30 của thế kỉ XX, khi mới ngoài hai mươi tuổi. Với những cống hiến hết mình, không mệt mỏi, ông được đánh giá là nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học xuất sắc nhất. Năm 2000, ông đã được nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cho cuốn Thi nhân Việt Nam – một trong những công trình xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của tác giả Hoài Thanh. Nội dung của cuốn sách này đề cập đến rất nhiều vấn đề như nguồn gốc của thơ mới, cuộc tranh luận và so sánh giữa thơ mới – thơ cũ, vài nét về con đường phát triển của Thơ mới, đặc điểm về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới; tinh thần cốt lõi của Thơ mới và hình ảnh cái tôi trong mỗi tác phẩm. Ở mỗi vấn đề, Hoài Thanh lại có những nhận định với những khía cạnh rất riêng với những ý kiến sắc sảo và tinh tế.
Mở đầu đoạn trích, theo Hoài Thanh muốn hiểu được thời đại thi ca, muốn hiểu tinh thần thơ ca phải so sánh bài hay nhau. Cách xác định của tác giả mang tính khoa học bởi lẽ chỉ những câu hay mới trở thành thước đo để tính giá trị sản phẩm mà thôi. Thứ hai, căn cứ vào đại thể chứ không nhìn vào tiểu tiết. Nghĩa là phải căn cứ vào cái chung nhất. Bởi các thơi đại luôn có sự nối tiếp nhau “hôm nay đã được phơi khai từ hôm qua trong cái mới vẫn còn rơi rớt từ cái cũ".
Tinh thần thơ mới là sự khẳng định của cái “tôi”. Để khẳng định tinh thần Thơ mới tác giả đã đưa ra những biện luận cụ thể về nội dung của chữ “ tôi” trong việc phân biệt chữ “tôi” với “ta”. Đặc điểm chung của thơ cũ là nghiêng về cái “ta”, nghiêng về ý thức cộng đồng. để làm rõ ý thức này, Hoài Thanh đã nhìn trong lối sống nói chung và nhìn trong văn học nói riêng. Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. như vậy nhìn đại thể thì thơ cũ gồm cả chữ "ta", họ cầu cứu đoàn thể để chống lại cô đơn.
Nhưng thơ mới lại nghiêng về “cái tôi”- ý thức cá nhân “dựa trên đại thể tất cả tinh thần thời nay hay tinh thần của thơ mới gồm hai trong chữ “tôi”- ý thức cá nhân của mỗi người” và khi thơ mới xuất hiện nó mang một quan niệm chưa từng thấy ở xứ sở này “đó là quan niệm cá nhân”.
Chẳng phải nội dung xuất phát từ ý thức cá nhân mà muốn được thể hiện khát vọng tận hưởng hạnh phúc ngay giữa trần gian, ngay trong hiện tại đó sao? Và cũng xuất phát từ những ý thức cá nhân mà Xuân Diệu đã thể hiện một quan niệm sống mới mẻ, táo bạo. Chạy đua với thời gian để mỗi phút, mỗi giây trong cuộc đời đều có ý nghĩa. Điều đó đã được thể hiện rõ nét qua bài thơ “vội vàng”.
Thứ ba là biểu hiện và ý nghĩa của cái tôi. Đầu tiên là sự xuất hiện và tiếp nhận cái “tôi”. Trước tiên khi cái tôi xuất hiện trên văn đàm còn có rất nhiều bỡ ngỡ. Mó giống như một kẻ lạc loài nơi đất khách bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Vì ta đã quen nhìn cuộc sống trong nhìn mình có cái “ta”. Bây giờ, nó xuất hiện sao tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Nhưng theo thời gian, chữ “tôi” dần dần được chấp nhận và làm cho nó đã mất dần đi vẻ bỡ ngỡ ban đầu.
Cuối cùng Hoài Thanh đã chỉ ra một hướng lớn trong thơ mới. Đào sâu vào cái “tôi”: đời chúng ta nằm trong vòng cái “tôi”, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu”, “mất bề rộng” là không còn nghiêng về cái chung, cái cộng đồng của thơ cũ, còn đi tìm bề sâu nghĩa là đi tìm cái tôi, đi sâu vào ý thức cá nhân của mỗi người. Nhưng càng đi sâu thì càng lạnh. Đó chính là bi kịch của thời đại thơ mới. Tâm hồn của các thi nhân thu mình trong chữ “tôi” nên dễ cảm thấy cô đơn, vắng lạnh nên thường gọi đó là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu nhà thơ đầy đủ nhất của thời đại ấy vậy mà chỉ nói tới cái cô đơn, khổ sở, thảm hại của cái ta trong những vần thơ của mình. Từ đó Hoài Thanh đã khái quát: "chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà nhất là xôn xao đến thế".
Cách dẫn dắt, cách lập luận của tác giả càng trở nên chặt chẽ hơn khi đưa ra các ví dụ cụ thể, so sánh liên tưởng và nhất là dẫn ra những câu chuyện của Cao Bá Nha, của cô Phụ trên bến Cầm Dương có tính chất đòn bẩy để xác định nỗi thương cảm không nơi nương tựa của những nhà thơ mới. Thế đấy, nỗi buồn của thơ mới được biểu hiện như một bi kịch diễn ra ngấm ngầm. Nhưng chính trong nỗi buồn, trong sự cô đơn kia lại mang tới cho người đọc rất nhiều ý nghĩa và những phong cách thơ riêng biệt của từng người.
Bài tiểu luận có tính chặt chẽ, lập luận khoa học, lời văn của Hoài Thanh vừa sắc sảo, vừa tinh tế với giọng văn của người trong cuộc cùng những chia sẻ đúng như quan niệm của Hoài Thanh “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Đặc biệt những khái niệm vốn khô khan, qua những trình bày, giải thích của tác giả đã được chuyển thành những hình ảnh có thể hiểu được. Các câu văn được cân chỉnh, hợp lí với giọng văn nhẹ nhàng, lôi cuốn người đọc. Chính điều này đã mang tính nhạc cho bài văn. Cách dẫn dắt đoạn văn hợp lí, logic ngôn ngữ đặc sắc, dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích là một trong những điều mà hiếm bài phê bình nào có thể làm được.