X

Soạn văn 8 Cánh diều

Top 30 Nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một tác phẩm thơ


Haylamdo biên soạn và sưu tầm tổng hợp trên 30 bài Nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một tác phẩm thơ hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 30 Nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một tác phẩm thơ

Nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một tác phẩm thơ - mẫu 1

Vào những năm 60 của thế kỉ XIX, Việt Nam rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng. Các cuộc khởi nghĩa của nông dân lại tiếp tục bùng nổ dữ dội trong những năm cuối thế kỉ XIX.

Vịnh khoa thi hương là bài thơ thuộc đề tài thi cử - một đề tài khá đậm nét trong sáng tác của Tú Xương. Qua việc tái hiện hình ảnh thảm hại của kì thi năm Đinh Dậu (1897) tại trường Hà Nam, nhà thơ bày tỏ sự xót xa, đau đớn của con người trước tình cảnh thảm hại của các nhà Nho vào thời kì mạt vận của Nho học.

Một phần hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu đã được tái hiện lại đồng thời nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước

Giá trị nghệ thuật: Nghệ thuật đối, đảo ngữ. Ngôn ngữ có tính chất khẩu ngữ, trong sáng, giản dị nhưng giàu sức biểu cảm

Dàn ý Nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một tác phẩm thơ

- Mở bài: Giới thiệu được tác phẩm muốn thuyết trình.

- Thân bài:

+ Xác định và trình bày được nội dung về tác giả và một số ý kiến về tác phẩm.

+ Lắng nghe đánh giá và phản hồi

- Kết bài: Khẳng định lại ý nghĩa nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đối với người nghe.

Nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một tác phẩm thơ - mẫu 2

Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ lớn, thơ ông được xem là biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường thơ ca cũng là con đường cách mạng. Thơ ông song hành với con đường cách mạng và phản ánh những chặng đường cách mạng quan trọng của dân tộc. Bài thơ Nhớ đồng là nỗi niềm thương nhớ đồng quê, cảnh vật con người, đồng bào đồng chí của người tù cộng sản trẻ tuổi trong những ngày tháng bị giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế.

Tháng 7 năm 1939 Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm trong tù ngục nhưng ông vẫn làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được sáng tác trong hoàn cảnh đó và được trích trong tập thơ: Từ ấy trong phần xiềng xích. Đây là một bài thơ tiêu biểu của tập thơ Từ ấy.

“Cô đơn thay là cảnh thân tù/ Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực...” đó là cảm giác rõ nhất khi Tố Hữu bị bắt, cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Vì vậy một âm thanh, một tiếng động nào bên ngoài dội vào cũng gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Không phải là tiếng chim tu hú khắc khoải gọi hè như trong bài thơ Khi con tu hú, mà là một tiếng hò quen thuộc của đồng quê:

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

Bài thơ gợi từ tiếng hò thân thuộc trở thành điệp khúc trở đi trở lại: Nỗi thương nhớ; nỗi hiu quạnh. Bằng cách lặp đi lặp lại 4 lần hình ảnh một tiếng hò nhà thơ đã nói lên được sự đồng cảm với tâm trạng cô đơn, cảm giác lạnh lẽo của người tù.

Tiếng hò như một điểm nhấn gợi nhớ, khiến cho bao nhiêu hình ảnh quen thuộc của đồng quê hiện về:

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

Âm thanh tiếng hò gợi nhớ về quê hương. Thế giới bên ngoài là đồng quê, hình ảnh con ngư­ời, mùi hư­ơng, màu sắc, âm thanh. Đó là những hình ảnh thân thuộc, da diết của quê hương, xứ sở. Trong xa cách, nỗi nhớ của nhà thơ dường như da diết hơn. Trong xa cách, hình ảnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc của quê hương càng trở nên gần gũi lạ thường.

Nỗi nhớ đồng quê ấy còn là nỗi nhớ con người lao động – những người dân quê cần cù, chất phác, quen “dãi gió dầm mưa”, “hiền như đất”, “rất thật thà”:

Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?

Đó là những người dân cày quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Đó người nông dân với luống cày vất vả, gian nan, lưng còng theo năm tháng. Thế nhưng, ở họ, toát lên một vẻ đẹp sáng ngời của phẩm chất trong sáng, dù có ở trong bùn đen nhưng vẫn nức hương. Chính họ, chính những người lao động chân chất thôn quê ấy còn là những người gieo những tia hi vọng vào tương lai.

Nhà thơ tiếp tục nỗi nhớ của mình với các hình ảnh: sương, lúa, tiếng xe lùa nước, giọng hò. Tất cả đều là hình ảnh, âm thanh thân thuộc của đồng quê. Và nhà thơ nhớ da diết những hình ảnh ấy. Từ nỗi nhớ ấy, nghĩ về cảnh tù đày của bản thân, một chút chạnh lòng chợt len lỏi trong tâm khảm nhà thơ cách mạng:

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!

Tất cả những gì quen thuộc nhất, thân thương nhất, nhưng giờ đây “đâu cả rồi”. Một câu hỏi lớn vang lên không lời đáp như là một nhát dao đâm vào lòng người tù, trở nên đau đớn, xót xa. Giờ đây, khi ở trong lao, mọi thứ đã cách biệt và trở nên xa xôi hơn bao giờ hết. Chao ôi thương nhớ, điệp khúc lặp lại hai lần trong câu thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhà thơ. Và trong nỗi nhớ thương ấy, hiện lên hình ảnh người mẹ già – người mà tác giả nhớ nhất trong nỗi nhớ của mình.

Mạch thơ tiếp diễn với nỗi nhớ thương da diết, dâng trào. Khi người ta nhớ, người ta thương mà không được nhìn, không được ngắm, không được trở về để yêu thương thì càng khiến con người thêm day dứt, thêm cồn cào ruột gan. Và sau những thoáng buồn thương cho cảnh ngộ của mình trong tù, người chiến sĩ thiết tha yêu cuộc sống lại kiên trì – đấu tranh với những giây phút yếu mềm để vượt lên. Anh nhớ lại hình ảnh của chính mình của “những ngày xưa”, từ cái thời “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, “theo mãi vòng quanh quẩn” để có ngày đến với cách mạng, gặp gỡ lí tưởng cộng sản. Và thế là người tù lại khát khao tự do, thèm muốn được thoát khỏi lao tù để lại được dấn thân vào trường tranh đấu vì sự nghiệp cách mạng.

Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say hương đồng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời

Hình ảnh con chim sơn ca như là một biểu tượng cho ước muốn được tung bay trên bầu trời tự do bát ngát, được trở lại với hoạt động trong lòng dân, được trở về với cuộc sống con người tự do. Đây là tâm trạng vui nhất của người chiến sĩ trong tù.

Diễn biến tâm trạng của tác giả trong bài thơ được thể hiện khá chân thực, trọn vẹn và liền mạch. Nỗi nhớ được đánh thức từ một “tiếng hò đưa hố não nùng”. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê bên ngoài từ cảnh sắc đến những dáng hình quen thuộc. Rồi nhớ về những ngày còn được thỏa sức hoạt động cho cách mạng, cuối cùng lại trở lại thực tại đau thương của cảnh nhà tù và khát vọng muốn được tự do, được cống hiến. Cả bài thơ thấm đượm nỗi nhớ thương da diết, khôn nguôi; khiến độc giả thêm cảm phục hình ảnh người chiến sĩ cách mạng – nhà thơ Tố Hữu.

Nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một tác phẩm thơ - mẫu 3

Minh Huệ được biết đến là một trong số những nhà thơ hiện đại Việt Nam. Trong những năm tháng cầm bút của mình ông đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị như: Dòng máu Việt Hoa (1954); Tiếng hát quê hương (1959); Rừng xưa rừng nay (bút ký, 1962); Đất chiến hào (1970) ... "Đêm nay Bác không ngủ" là một trong số những bài thơ nổi tiếng và làm nên tên tuổi của ông.

Bài thơ dựa trên sự kiện trong chiến dịch Biên giới cuối năm 1950, Bác Hồ trực tiếp ra mặt trận theo dõi và chỉ huy cuộc chiến đấu của bộ đội và nhân dân ta. Bài thơ đã thể hiện tấm lòng yêu thương sâu sắc của Bác Hồ với nhân dân và bộ đội Việt Nam và tình cảm khâm phục, kính yêu của người chiến sĩ đối với vị lãnh tụ của dân tộc.

Trước hết, tác phẩm đã thể hiện vẻ đẹp của Bác qua tấm lòng yêu thương, sự chăm sóc mà Bác dành cho bộ đội, dành cho nhân dân. Ngay mở đầu bài thơ dáng vẻ giản dị ấy đã hiện ra:

"Lặng yên bên bếp lửa
Vẻ mặt Bác trầm ngâm"

Hai câu thơ vẽ ra hình ảnh bình yên hoà mình vào nhịp sống chung của những người chiến sĩ, của khổ cực, giá rét của vị lãnh tụ kính yêu. Nhưng khi đặt bài thơ vào hoàn cảnh bấy giờ của đất nước, dường như trong cái "lặng yên", "trầm ngâm" đó còn ẩn chứa sự lo lắng về tương lai, vận mệnh của đất nước.

Chúng ta vẫn thường hay gọi Bác là vị cha già của dân tộc và Minh Huệ đã thể hiện rất rõ điều đó qua những câu thơ:

"Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm
Rồi Bác đi dém chăn
Từng người từng người một
Sợ cháu mình giật thột.
Bác nhón chân nhẹ nhàng..."

Đêm khuya trong rừng lạnh và buốt, Bác không muốn các cháu của mình bị cảm nên đã cẩn trọng đắp lại chăn cho từng người. Lời thơ như lời kể chuyện vẽ ra trước mắt chúng ta hình ảnh một vị lãnh tụ âm thầm, quan tâm chăm sóc cho từng người. Chỉ bằng vài hành động nhỏ, vài cử chỉ quan tâm ta đã thấy được tình yêu thương mà Bác dành cho những người lính thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao.

Hình ảnh của Bác càng trở nên đẹp hơn qua cuộc đối thoại với anh bộ đội. Trước thái độ quan tâm của anh đội viên Bác tâm sự đầy chân thành và xúc động: "Bác thức thì mặc bác/ Bác ngủ không yên lòng/ Bác thương đoàn dân công... Càng thương càng nóng ruột/ Mong trời sáng mau mau". Làm sao chúng ta có thể không xúc động trước sự quan tâm, nỗi lo mà Bác dành cho dân tộc, cho đất nước? Bác thương lắm, thương vô cùng những người chiến sĩ thiếu thốn đủ thứ, chỉ có lá cây thay chiếu để nằm, manh áo dùng làm chăn trong những ngày buốt giá. Tấm lòng, tình yêu thương của Bác đã gợi nên sự xúc động mạnh mẽ trong trái tim người chiến sĩ: "Đêm nay Bác ngồi đó/ Đêm nay Bác không ngủ/ Vì một lẽ thường tình/ Bác là Hồ Chí Minh". Hai câu thơ cuối đã nói lên trọn vẹn tấm lòng bao la, tình yêu thương tha thiết mà cả cuộc đời này Bác dành cho dân tộc, cho đất nước.

Từng câu, từng chữ lướt qua trong đầu ta, lắng đọng lại trong đó là cả một nhân cách lớn, một tình cảm lớn. Vẻ đẹp của Bác chính là sự hòa quyện giữa cái phi thường và cái bình thường, giữa cái giản dị thanh cao với một nhân cách lớn.

Không chỉ vậy, vẻ đẹp của Bác còn được thể hiện ở tình cảm, tấm lòng biết ơn, cảm phục của anh đội viên dành cho Bác. Đây là nhân vật chứng kiến toàn bộ hành động của Bác và cũng là người tham gia vào câu chuyện. Đầu tiên đó là cảm xúc băn khoăn, ngạc nhiên khi thấy trời đã khuya mà sao Bác vẫn còn thức. Nhưng chính anh đã tự giải đáp cho mình thắc mắc đó: "Đêm nay Bác không ngủ", không phải là Bác chưa ngủ mà là Bác không ngủ. Không ngủ để lo việc nước, việc dân. Hiểu được tấm long Bác nên chúng ta mới bắt gặp hình ảnh: "Anh đội viên nhìn Bác/ Càng nhìn lại càng thương". Sự quan tâm của anh đội viên đã được cất lên thành câu hỏi quan tâm ân cần:

"Bác ơi! Bác chưa ngủ?
Bác có lạnh lắm không?"

Qua hình ảnh anh đội viên cùng những suy nghĩ, tình cảm của anh về Bác, Minh Huệ đã khéo léo thể hiện được tình cảm, sự biết ơn của mình dành cho Người.

Thể thơ năm chữ được tác giả kết hợp khéo léo với các phương thức biểu đạt như tự sự, miêu tả, biểu cảm khiến cho hình ảnh Bác không chỉ hiện lên qua câu chuyện mà anh đội viên chứng kiến mà còn thể hiện được tình cảm của mình dành cho Bác.

Có thể nói bài thơ được viết bằng những tình cảm chân thành cùng cách viết giống như một câu chuyện đã khiến tác phẩm sống mãi trong lòng độc giả cùng với những tình cảm yêu mến, biết ơn dành cho Bác.

Nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một tác phẩm thơ - mẫu 4

Không biết xuân đến như thế nào và thơ về xuân đẹp ra sao, chỉ biết con người sinh ra với một mùa xuân tươi đẹp tràn đầy nhựa sống và hơi thở trong hồn thơ, sống trong đời, nếu không có thơ xuân thì mùa xuân mất đi ý nghĩa với con người. Mùa xuân có vẻ đẹp riêng, có khi là “mùa xuân nho nhỏ”, có khi là “mùa xuân xanh”… và ở đây là bài thơ “Mùa xuân chín” tiềng “chín” nghe mới mẻ, rạo rực, có sức sống dồn nén đang âm thầm trào dâng, nghe nỗi khát khao trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Mỗi dòng thơ đều hơi đàn hồi, thấm đượm vẻ đẹp tâm hồn thi nhân.

Mùa xuân bắt đầu với một mặt trời mới lạ thường:

Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang

Mở đầu bài thơ, nắng xuân không phải là tia nắng, tia nắng, cũng không phải là giọt nắng, mà là “mặt trời”. Từ “cách” như gợi lên một hơi thở nhè nhẹ, nắng mỏng mềm trải đều trong thơ và trong không gian. Mặt trời lại “sáng bừng” trong “khói mơ”, cảnh vật dịu dàng, đẹp đẽ và huyền ảo. Sương khói lẫn trong nắng; “ánh sáng” của mặt trời được tôn lên trong làn khói mơ màng mà “tan biến”. Ở đoạn thơ này, ngòi bút của nhà thơ đã chuyển sang thể thơ truyền thống, cổ điển miêu tả nắng xuân vừa chuyển động vừa tràn đầy yêu thương. Khung cảnh rất bình dị, chỉ là những “mái nhà tranh” hiện ra dưới “cái nắng chan hòa” nhưng vẫn gợi lên một sức sống yên bình, mộc mạc rất quen thuộc với mọi người. Nắng như rắc lên những “mái nhà tranh” một chút sắc xuân và hương thơm: “Gió xào xạc trêu tà áo xanh”. Tiếng gió “rung rinh” tà áo và màu “xanh” của lá là tình yêu của mùa xuân. Một từ “trêu” thật dễ thương, thật thân thương, như một chút gì đó mang hương vị đồng quê của những câu ca dao, câu hò xưa cứ văng vẳng trong lòng ta mãi. Gió cũng biết kén chọn, không phải áo nào cũng “trêu ngươi” mà phải chọn áo xanh mới cũng nên thơ và đẹp.

Tác giả miêu tả nắng, mái tranh, gió, rồi khái quát: “Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”. Câu thơ có sự ngưng đọng, ngưng đọng của những cảm xúc ngọt ngào, lưu luyến nhưng lại mang một nỗi xao xuyến nao nao như đón “Bóng xuân sang”. Mùa xuân bước đi nhẹ nhàng như có thể cầm, có thể thấy ngay trước mặt mỗi chúng ta. Mùa xuân hiện lên trong mắt Hàn Mặc Tử sao mà dịu ngọt đến thế! Sau sự cô đọng và rung rinh như một sợi dây căng ra trong tâm hồn thi nhân, ở những câu thơ sau, mùa xuân lại về:

Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,

Bao cô thôn nữ hát trên đồi.

- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,

Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi

Hình ảnh ẩn dụ “sóng cỏ” và ba từ “gợn tới trời,” gợi lên những ngọn cỏ xanh mướt đung đưa trong gió xuân nhè nhẹ. Cỏ như xanh mãi, luôn tươi trong không gian rộng lớn này. Gam màu “xanh” tràn đầy sức sống thanh bình trong thơ Hàn Mặc Tử cứ tiếp tục “gợn sóng tận trời”, nó trải dài miên man như thể vô tận, trải dài mãi, trải dài mãi, trải dài mãi rồi hòa mình vào hồn thơ. “Mùa xuân xanh” là hình ảnh ẩn dụ về những cô thôn nữ hát và “thì thầm gọi ai ngồi dưới lũy tre” lúa chín cùng mùa xuân và “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Những cô gái trong làng dần lớn lên, dần “trưởng thành” và đến tuổi lấy chồng, theo chồng. Thiên nhiên và lòng người lưu luyến mùa xuân đã qua, mùa xuân hồn nhiên đang dần qua. Hàn Mặc Tử bỗng như chạnh lòng, hụt hẫng, buồn như đánh mất một điều gì trong lòng khi mùa xuân đang chín… Mùa xuân chỉ thực sự “chín” khi có người và tiếng hát vang vọng. :

Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc,

Nghe ra ý vị và thơ ngây

Khúc hát giữa mùa xuân sao quen thuộc, đằm thắm quá. Tiếng hát “rớt mướt”, “ngây thơ” của những cô thôn nữ mùa xuân là một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, như hội xuân muôn thuở của xứ này. Câu thơ gợi lên sự “trưởng thành” trong tâm hồn của bao cô gái làng quê qua tiếng “vắt”, âm hưởng trong trẻo, tươi tắn của câu hát giao duyên trai gái quê mộc mạc mà trìu mến. Cảm và yêu say đắm cuộc đời thi sĩ Hàn Mặc Tử, ông cũng vô cùng xúc động trước bài hát này. Hai câu thơ vừa tả cảnh vừa tả người, mùa xuân vạn vật đâm chồi nảy lộc, xanh tươi thì đến con người. Âm thanh đọng lại trong từng âm tiết, âm rung, tiếng “ca” hòa với tiếng “thở” trầm, thể hiện sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế và tài tình. Tâm hồn thi nhân như hòa nhập hoàn toàn vào vũ trụ âm thanh mùa xuân này. Tiếng hát như vút cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa “lưng chừng núi”. Âm vang của câu hát như rung lên “Thầm thĩ” gợi bao cảm xúc rộn ràng trong lòng nhà thơ. Từ “hổn hển” được so sánh “như lời nước mây”, lời của thiên nhiên. Hai tiếng “hổn hển” như những hơi thở gấp gáp, gấp gáp đầy hương xuân, tình xuân và những cảm xúc mộng mơ chân thực đến lạ lùng. Lời cô thôn nữ thật đẹp, như hút hồn người, lấp đầy cả khoảng trống, góp phần tạo nên một “mùa xuân chín”. “vắt vẻo”, “Hổn hển”, “Thầm thĩ” là ba thanh điệu của ba âm thanh chín mọng của mùa xuân, thấm sâu vào tâm hồn con người để lắng đọng lại một cách nhẹ nhàng, chan chứa yêu thương. Sự đa âm của những khúc hát đồng quê làm say đắm lòng người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: “Nghe ra ý vị và thơ ngây”.

Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:

Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?

Hình ảnh kỉ niệm là nhân chứng cho một nỗi buồn đẹp và lan tỏa rộng rãi. Nhà thơ nhớ người như nhớ một tình người, một tình quê; Kỷ niệm nào cũng thật buồn, bồng bềnh. Nhà thơ nhớ từng chi tiết, nhớ từng công việc cụ thể: “gánh gạo” trong một không gian cụ thể: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chan”. Nhưng chỉ có “cô ấy” là người đọc không thể biết đó là ai, chỉ có tác giả biết “nhớ” mà thầm hỏi, mà lo sợ “mùa xuân chín” sẽ qua. Dường như với thơ Hàn Mặc Tử, tâm hồn Hàn Mặc Tử luôn khao khát được giao tiếp với cuộc đời, luôn có một cảm giác cô đơn, trống trải và thất vọng như vậy. Mùa xuân chín là một bài thơ xuân rất hay, là hình ảnh của mùa xuân vừa qua rực rỡ, rực rỡ, nồng nàn, nên thơ nhưng có chút buồn. Hàn Mặc Tử với cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa kết hợp với chất mộc mạc, tươi trẻ, bình dị đã hé lộ một hình ảnh mùa xuân tươi mới, thơ mộng. Thanh xuân thật đẹp với những con người trẻ trung, hồn nhiên và đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu quê, yêu nắng to, yêu mái tranh, yêu khung bầu trời, yêu tiếng hát của những cô gái xuân thì trên “Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,”.

Xem thêm các bài văn mẫu 8 Cánh diều hay khác: