Top 30 Phân tích một tác phẩm thơ (cực hay)
Haylamdo biên soạn và sưu tầm tổng hợp trên 30 bài Phân tích một tác phẩm thơ hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
Top 30 Phân tích một tác phẩm thơ (cực hay)
Dàn ý Phân tích một tác phẩm thơ
- Mở bài: Giới thiệu khái quát về tác phẩm
- Thân bài:
+ Nêu chủ đề tác phẩm
+ Phân tích nghệ thuật lựa chọn và xây dựng hình ảnh. Lí giải vì sao tác giả lại lựa chọn các hình ảnh ấy và phân tích để thấy được mục đích trào phúng.
+ Phân tích nghệ luật lựa chọn ngôn từ.
+ Chỉ ra và phân tích tác dụng của các phép đối đã được tác giả dụng trong tác phẩm.
+ Nêu lên những sũy nghĩ và cảm xúc của bản thân về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
- Kết bài: Khái quát, tổng hợp lại vấn đề được trình bày.
Phân tích một tác phẩm thơ - mẫu 1
Nhà thơ Lưu Trọng Lư cũng là một trong những người mở đường, tiên phong cho phong trào Thơ mới. Thơ ông thiên về cảm xúc, mang đậm màu sắc truyền thống. Lấy chủ đề là tình cảm gia đình, ông đã thể hiện một cách đầy tinh tế và sâu sắc nỗi nhớ thương mẹ qua bài thơ "Nắng mới". Mạch thơ trải dài với dòng hồi tưởng, đan xen giữa quá khứ, hiện tại.
Ở khổ đầu tiên, ta thấy được hình ảnh "nắng mới" đã khơi nguồn cảm xúc về kí ức của nhân vật trữ tình. "Nắng mới", "gà trưa" đều là những hình ảnh quen thuộc gắn liền với làng quê Việt Nam. Nắng mới là cái nắng của một ngày, báo hiệu ngày mới đã sang. Chính vì vậy, nắng mới mang vẻ đẹp của sự tinh khôi, mong manh, trong trắng. Tuy nhiên, động từ "hắt" gợi liên tưởng về những tia nắng xuyên qua qua song cửa. Khung cảnh vì thế cũng trở nên ảm đạm, hiu hắt hơn. Đến dòng thơ tiếp theo, nhịp thơ đã có sự thay đổi từ 4/3 sang 2/2/3 nhằm thể hiện cảm xúc trầm buồn, nhớ thương của nhân vật trữ tình. Nếu như tiếng gà trưa trong thơ Xuân Quỳnh khơi gợi những kỉ niệm đẹp bên bà thời ấu thơ của người lính hành quân thì tiếng gà trong "Nắng mới" lại gợi ấn tượng về cảm giác não nùng, buồn bã. Trong không gian vắng lặng của buổi trưa, tiếng gà vang lên "xao xác", "não nùng". Dường như, "nắng mới" và "tiếng gà" đã khơi dậy trong nhân vật trữ tình dòng kí ức về một thời xa xưa. Cứ mỗi lần nhìn thấy nắng mới bên song, mỗi lần nghe tiếng gà trưa, "tôi" lại nhớ về những kỉ niệm thời thơ ấu "Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng/ Chập chờn sống lại những ngày không". Thông thường, người ta hay nói "buồn rười rượi" nhưng tác giả lại đảo từ "rượi" lên trước từ "buồn" để nhấn mạnh vào nỗi buồn tê tái, khôn nguôi. Đặc biệt, từ láy "chập chờn" còn diễn tả sự khắc khoải của nhân vật "tôi" khi nhớ lại ngày thơ bé. Kỉ niệm ùa về, lúc ẩn lúc hiện đã làm sống lại cả một thời dĩ vãng trong tâm trí "tôi".
Đến khổ thứ hai, nhân vật "tôi" trực tiếp bày tỏ nỗi nhớ thương của mình về mẹ:
"Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời,
Lúc người còn sống, tôi lên mười;".
Sở dĩ, mỗi lần thấy "nắng mới hắt bên song", nhân vật trữ tình lại "Chập chờn sống lại những ngày không" bởi "mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,/ Áo đỏ người đưa trước giậu phơi". Bóng dáng mẹ phơi áo trước giậu vào những ngày nắng mới đã trở thành kí ức khó phai trong tâm trí "tôi". Chính bởi lẽ đó mà mỗi lần nhìn ra bên ngoài, bắt gặp ánh nắng nhân vật trữ tình lại chứa chan nỗi nhớ về hình ảnh mẹ thuở xưa kia.
Câu thơ "Hình dáng mẹ tôi chửa xoá mờ" là lời khẳng định chắc nịch của "tôi" khi hình dáng mẹ vẫn luôn hằn sâu trong tâm trí. Lúc này, nhân vật trữ tình nhớ về mẹ với "Nét cười đen nhánh sau tay áo,/ Trong ánh trưa hè, trước giậu thưa". Mẹ mang vẻ đẹp duyên dáng, hiền từ của người phụ nữ Việt Nam. Cái nắng chói chang của trưa hè đã làm bật lên nụ cười đen nhánh của mẹ. Nụ cười ấy đã theo suốt "tôi" thuở ấu thơ cho đến hiện tại.
Nỗi nhớ da diết, lắng đọng của nhân vật "tôi" cũng chính là tình cảm chân thành mà con dành cho mẹ. Bằng ngôn từ giản dị, mộc mạc, giàu sức gợi hình, gợi cảm cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết, tâm tình, nhà thơ Lưu Trọng Lư muốn bày tỏ tình yêu thương mãnh liệt của mình đối với mẹ. Qua đó, thể hiện giá trị đạo đức cao đẹp của người Việt Nam, đó là tình cảm gia đình thiêng liêng, sâu sắc.
Đúng như những gì Hoài Thanh đã nhận định: "Tôi chỉ biết, dầu có ưa thơ người này hay người khác, mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư". Thơ Lưu Trọng Lư luôn có một sức hút đặc biệt với mọi người. Tác phẩm của ông là lời ca chan chứa về tình mẫu tử thiêng liêng.
Phân tích một tác phẩm thơ - mẫu 2
Thân phận lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ biến trong văn học dân gian và văn học viết thời hiện đại. Tình yêu và hạnh phúc gia đình là một trong những mối quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay. Nó góp phần thể hiện rõ tinh thần nhân đạo trong văn học. Chùm thơ Tự tình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về người phụ nữ trong văn học Việt Nam - Hồ Xuân Hương.
Người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng nghe tiếng trống cầm canh báo thời khắc đi qua. Canh khuya là thời gian từ nửa đêm cho đến sáng. Nàng cảm thấy tiếng trống canh báo hiệu thời gian khắc khoải mong ngóng một điều gì. Nhưng càng mong lại càng không thấy. Tiếng trống canh đang dồn dập kia chính là thông báo về thời gian tâm trạng của nàng. Nó thể hiện nỗi chờ mong khắc khoải, thảng thốt thiếu tự tin, đầy lo âu và tuyệt vọng của người đàn bà.
Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng bẽ bàng của người vợ cô đơn chờ mong chồng mà chồng không đến bằng một chữ trơ - trơ trọi, trơ cái hồng nhan, cái thân phận phụ nữ với nước non, với đời, với tình yêu.
Hai câu tiếp theo, Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng tuyệt vọng của người vợ chờ chồng.
Câu thơ ẩn chủ từ, chỉ thây hành động và trạng thái diễn ra. Chén rượu hương đưa nghĩa là uống rượu giải sầu cho quên sự đời, nhưng say rồi lại tỉnh, tức là uống rượu vẫn không quên được mối sầu!
Vầng trăng bóng xế trong câu bốn có nghĩa là đêm đã gần tàn, nhưng trăng chưa tròn mà đã xế, thể hiện cảm xúc về hạnh phúc chưa tròn đầy. Vầng trăng bóng xế cũng có thể có hàm ý chỉ tuổi người đã luống mà hạnh phúc chưa đầy.
Nếu như bốn câu thơ đầu tiên diễn tả cái tâm trạng chờ đợi mòn mỏi có phần tuyệt vọng, buông xuôi, thì ở hai câu năm và sáu, Hồ Xuân Hương đã bất ngờ vẽ ra hình ảnh một sự cảm khái. Cái đám rêu kia còn được bóng trăng xế xiên ngang mặt đất soi chiếu tới. Ta có thể tưởng tượng: mấy hòn đá kia còn được ánh trăng đâm toạc chân mây để soi đến. Hoá ra thân phận mình cô đơn không bằng được như mấy thứ vô tri vô giác kia! Đây không nhất thiết phải là cảnh thực, mà có thể chỉ là hình ảnh trong tâm tưởng. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc có ý tiếp cái mạch văn trũng bóng xế ở câu trên. Nhưng các sự vật, hình ảnh thiên nhiên ở đây diễn ra trong dáng vẻ khác thường, do việc tác giả sử dụng những từ ngữ chỉ hành động có tính chất mạnh mẽ, dữ dội:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Hai câu thơ này cũng có thể hiểu là đảo ngữ: rêu từng đám xiên ngang mặt đất, còn đá mấy hòn vươn lên đâm toạc chân mây. Và đó không phải là hình ảnh của ngoại cảnh, mà là hình ảnh của tâm trạng, một tâm trạng bị dồn nén, bức bối muốn đập phá, muốn làm loạn, muốn được giải thoát khỏi sự cô đơn, chán chường. Nó thể hiện cá tính mạnh mẽ, táo bạo của chính Hồ Xuân Hương.
Những dồn nén, bức bôi, đập phá của tâm trạng nhà thơ bất ngờ bộc phát, và cũng bất ngờ lắng dịu, nhường chỗ cho sự trở lại của nỗi buồn chán và bất lực, chấp nhận và cam chịu. Câu thơ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại chứa đựng biết bao nhiêu là thời gian và sự chán nản kéo dài. Cuộc đời cứ trôi đi, thời gian cứ trôi đi, tình yêu và hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút. Tác giả đã đi, tình yêu mà hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút. Tác giả đã dùng từ mảnh tinh để nói cái tình bé như mảnh vỡ. Lại nói san sẻ - Chắc là san sẻ với chồng, san sẻ với vợ cả chăng? Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, như một tổng kết, như một lời than thở thầm kín của người phụ nữ có số phận lẽ mọn về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn trong xã hội xưa.
Bài thơ là lời than thở cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ chịu cảnh lẽ mọn, thể hiện thái độ bi quan, chán nản của tác giả và thân kiếp thiệt thòi của con người.
Đặc sắc nhất về nghệ thuật của bài thơ là sử dụng những từ ngữ và hình ảnh gây ấn tượng mạnh. Tác giả chủ yếu sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét với sắc thái đặc tả mạnh, bằng những động từ chỉ tình thái: dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc, đi, lại lại, san. sẻ, ... và tính từ chỉ trạng thái: say, tỉnh, khuyết, tròn... để miêu tả những cảm nhận về sự đời và số phận.
Hình ảnh trong bài thơ gây ấn tượng rất mạnh bởi nghệ thuật đặc tả. Nhà thơ thường đẩy đối tượng miêu tả tới độ cùng cực của tình trạng mang tính tạo hình cao. Nói về sự cô đơn, trơ trọi đến vô duyên của người phụ nữ thì: Trơ cái hồng nhan với nước non. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc đều là những hành động mạnh mẽ như muốn tung phá, đầy sức sống thể hiện những cảm xúc trẻ trung.
Tác phẩm trình bày một cách nghệ thuật mối mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn của người phụ nữ trong cảnh lẽ mọn với hiện thực phũ phàng là sống trong cô đơn, mòn mỏi mà họ phải chịu đựng, giữa mong ước chính đáng được sống trong hạnh phúc vợ chồng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc sống đem lại.
Bài thơ bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi bất hạnh của người phụ nữ, phê phán gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện rõ sự bất lực và cam chịu của con người trước cuộc sống hiện tại.
Bài thơ diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng cảm thông, một khát vọng đáng trân trọng, một tâm trạng đáng được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội xưa. Những mơ ước hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ, đó là bi kịch không thể giải tỏa. Vì thế giọng điệu của bài thơ vừa ngậm ngùi vừa ai oán. Yêu cầu giải phóng con người, giải phóng tình cảm chỉ có thể tìm được lời giải đáp dựa trên cơ sở của những điều kiện lịch sử - xã hội mới mà thôi.
Phân tích một tác phẩm thơ - mẫu 3
Trong nền văn học hiện đại nếu như chúng ta bắt gặp sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương thì chắc hẳn rằng sẽ thấy được sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ "Qua đèo Ngang" tiêu biểu cho phong cách ấy.
Bài thơ "Qua đèo Ngang" được sáng tác khi tác giả vào Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho thân gái nơi đường xa. Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết.
Chỉ 8 câu thơ nhưng nó đã diễn tả được hết cái thần thái, cái hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh và lòng người man mác như thế này. Hai câu đề gợi lên trước mắt người đọc khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang:
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, lá chen hoa
Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả thể hiện qua từ "bóng xế tà". Có thể nói đây là thời gian là cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi buồn, gợi sầu hơn. Trong ca dao, dân ca, chúng ta vẫn bắt gặp thời điểm chiều tả để đặc tả nỗi buồn không biết bày tỏ cùng ai. Mặt trời xuống núi, hoàng hôn sắp bao phủ lấy nơi này.
Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên nơi đây dường như quạnh quẽ đến nao lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Điệp từ "chen" dường như đã làm tăng thêm tính chất hiu quạnh của địa danh này. Hoa lá đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt nhau để sống, sinh sôi.
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Đến hai câu thực thì mới thấp thoáng hình ảnh con người, nhưng cũng chỉ là "tiều vài chú". Hóa ra chỉ là một vài chú tiều bé nhỏ đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với phép đảo trật tự cú pháp ở hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã một lần nữa nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang.
Việc sử dụng hai từ láy "lom khom" và "lác đác" vừa chỉ hoạt động gánh củi vất vả vừa chỉ ước tính số lượng cụ thể. Những hình ảnh ước lệ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã lột tả hết thần thái cũng như cảm xúc của tác giả lúc đó. Những sự sống hiếm hoi, lẻ loi và mong manh đang chờn vờn ở ngay trước mắt nhưng xa lắm. Muốn tìm bạn để tâm sự cũng trở nên khó khăn. Sang đến hai câu thơ luận thì cảm xúc và tâm sự của tác giả bỗng nhiên trỗi dậy:
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái da da
Điệp âm "con cuốc cuốc" và "cái da da" đã tạo nên âm hưởng dìu dặt, du dương nhưng vô cùng não nề thấm đến tâm can. Người lữ khách đường xa nghe văng vẳng tiếng cuốc và da da kêu mà lòng quạnh hiu, buồn tái tê. Thủ pháp lấy động tả tĩnh của tác giả thật đắc điệu, trên cái nền tĩnh lặng, quạnh quẽ bồng nhiên có tiếng chim kêu thực sự càng thêm não nề và thê lương.
Nghe tiếng cuốc, tiếng da da mà tác giả "nhớ nước" và "thương nhà". Thương cảnh nước nhà đang chìm trong cảnh loạn lạc, gia đình li tan; thương cho thân gái phải xa nhà quạnh hiu, đơn độc. Nỗi lòng của bà huyện thanh quan như sâu thẳm tầng mây, trùng trùng điệp điệp không dứt. Hai câu thơ kết thì cảm xúc và nỗi niềm của tác giả được đẩy lên đỉnh điểm:
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Chỉ bốn chữ "dừng chân nghỉ lại" cũng đã khiến người đọc cảm thấy da diết, bồn chồn đến não nề. Cảnh trời nước mênh mông, vô tận nhưng con người thì bé nhỏ khiến cho tác giả thấy mình lạc lõng và không một nơi bấu víu. Đất trời rộng lớn, tác giả chỉ cảm thấy còn "một mảnh tình riêng". Và cái mảnh tình con con ấy cũng chỉ có "ta với ta". Nỗi buồn dường như trở nên cực độ, buồn thấu tận tâm can, buồn nghiêng ngả trời đất.
Bài thơ "Qua đèo Ngang" với giọng điệu da diết, trầm bổng, du dương và những thủ pháp nghệ thuật độc đáo đã mang đến cho người đọc cảm xúc khó quên. Dư âm của bài thơ dường như còn vang vọng đâu đây.
Phân tích một tác phẩm thơ - mẫu 4
Bài thơ “Quê Người” của Vũ Quần Phương là một tác phẩm thơ đầy tình cảm và sâu lắng về quê hương. Tác phẩm này thể hiện sự yêu thương và nhớ nhung đối với quê hương, đồng thời cũng phản ánh sự thay đổi của nơi quê nhà trong lòng tác giả. Điều này đã làm nên giá trị nghệ thuật và thông điệp tinh thần đặc biệt của bài thơ.
Trên cao thì nắng cũng quê ta
Cũng trắng màu mây bay phía xa
Khổ thơ đầu tiên của bài thơ đã khắc họa một cảnh tượng tươi đẹp và thân thuộc của quê hương. Với những tia nắng chan hòa, những đám mây trắng bồng bềnh, tác giả đã khắc sâu vào tâm trí độc giả hình ảnh một vùng quê yên bình, tươi đẹp. Từ “trắng màu mây bay” thể hiện sự trong trẻo và tinh khôi của môi trường tự nhiên, thúc đẩy cảm xúc của người đọc về sự thanh khiết của quê hương.
Nắng xuống vào cây, soi tận lá
Cây lá không là cây lá quen
Những dáng phố phường xa lạ kiểu
Nhưng nếp nhà dân khác lạ thềm
Khổ thơ thứ hai tiếp tục tập trung vào sự thay đổi của quê hương. Dòng nắng chiếu xuống cây, ánh sáng chiếu tới từng chi tiết của thiên nhiên, làm cho mọi thứ trở nên lạ lẫm và xa lạ. Từ “Những dáng phố phường xa lạ kiểu” đánh dấu sự biến đổi trong kiến trúc và đô thị hóa, khiến cho người đọc cảm nhận sự khác biệt và xa lạ trong quê hương mình. Tuy vậy, tác giả vẫn nhớ và yêu quê hương qua việc đề cập đến “nếp nhà dân khác lạ thềm,” thể hiện sự tôn trọng và quan tâm đối với cuộc sống của người dân nơi quê nhà.
Nhớ quê, đành vậy, nhìn mây trắng
Nhìn nắng hanh vàng trên núi xa
Ngó xuống mũi giày thì lữ thứ
Bụi đường cũng bụi của người ta
Khổ thơ cuối cùng của bài thơ là nơi tác giả bày tỏ sự nhớ nhung và tình cảm đối với quê hương. Từ “Nhớ quê” thể hiện sự khao khát và nỗi nhớ thương. Mây trắng và nắng vàng trên núi xa là hình ảnh của quê hương xa xôi, thể hiện sự nhớ mong với tình cảm đậm đà. “Bụi đường cũng bụi của người ta” bày tỏ sự thấu hiểu và tương tác với cuộc sống hàng ngày của người dân nơi quê hương.
Trong bài thơ “Quê Người” của Vũ Quần Phương, tác giả đã thể hiện sự yêu thương và tình cảm đối với quê hương, đồng thời phản ánh sự thay đổi và sự biến chuyển của nơi quê nhà trong lòng người con xa xứ. Bài thơ này không chỉ mang giá trị nghệ thuật về mặt thơ ca mà còn là một thông điệp tinh thần về tình yêu và lòng biết ơn đối với quê hương, nơi mà con người luôn dành cho nó một tình cảm đặc biệt và mãi mãi.
Phân tích một tác phẩm thơ - mẫu 5
Hoài Thanh đã viết: “Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ". Câu nói đã như một lời khẳng định Đoàn Văn Cừ luôn hướng ngòi bút của mình tới quê hương, và “Đường về quê mẹ” là một trong số tác phẩm như thế.
Chỉ với sáu khổ thơ, tuy không dài nhưng cũng không ngắn nhưng cũng đã đủ thể hiện tình cảm yêu thương về quê hương, đặc biệt về mẹ của tác giả. Trong sáu khổ thơ, hai khổ thơ đầu của bài đã thể hiện rõ nỗi nhớ về quê hương và kỉ niệm về con đường về quê cùng mẹ.
U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân,
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần,
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.
Tôi nhớ đi qua những rặng đề,
Những dòng sông trắng lượn ven đê.
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp,
Người xới cà, ngô rộn bốn bề.
“U tôi”, một tiếng gọi thân thương cũng như một lời khẳng định. Vào mỗi mùa xuân, u sẽ đưa tôi về quê ngoại, nhận lại họ hàng và thăm mọi người ở quê. Có con đường nào đẹp bằng con đường về quê, nơi có người luôn yêu thương và chờ đợi ta. Con đường về quê luôn đẹp với những rặng liễu, rặng đề ven đường, trời trong xanh với những áng mây trắng bay. Đường về quê luôn có dòng sông trắng uốn lượn chào đón, luôn có những cồn xanh bãi tía cùng người nông dân bộn bề việc nông. Quang cảnh tả thực chứ không hề tô vẽ, phóng đại. Tuy nhiên, cái đẹp của quang cảnh cũng không thể nào sánh được với vẻ đẹp của u.
Thúng cắp bên hông, nón đội đầu,
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au.
U chính là đại diện cho những nét đẹp của người con gái Việt Nam thời xưa. Dù đã lớn tuổi nhưng u vẫn không khác gì thời con gái với thúng cắp bên hông, đầu đội nón lá, đeo khuyên vàng, mặc yếm thắm, áo the nâu. Tuổi tác cũng không che được những nét hồng hào ở u. Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au, tất cả đã làm bừng sáng cả bài thơ. Đối với tác giả, với cương vị là người con và dưới con mắt đa tình của nhà thơ, u luôn đẹp, luôn trẻ, luôn hiện hữu bên cạnh mình, để chỉ cần nhấc bút là có thể vẽ lên mẹ trên những vần thơ.
Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng,
Đoàn người về ấp gánh khoai lang,
Trời xanh cò trắng bay từng lớp,
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.
Tuy nhiên, sự thật vẫn luôn là sự thật. Ở khổ thơ bốn, tác giả đã mượn cảnh đông vui của làng quê để che giấu đi nỗi buồn, nỗi cô đơn trong lòng mình. Dù con đường về quê vẫn vậy, dù cảnh sắc thiên nhiên vẫn thế, nhưng mùa xuân này, tác giả lại về quê một mình. Thời gian cứ trôi, con người vẫn luôn miệt mài trong cuộc sống của họ, những hình ảnh bình dị về quê hương như những buổi chiều mát, con đường đón nhận những tia nắng vàng cùng đoàn người gánh khoai lang ra về. Tất cả vẫn còn hiện hữu, chỉ có người cùng mình về quê mỗi mùa xuân là không còn. Mùa xuân đến cũng là lúc lá bàng lìa khỏi cây. “Xác lá bàng” ở đây chỉ là cái lá rụng rơi trên mặt đất còn hồn lá bàng đã đi theo sự tan biên của mùa đông. Qua hình đó, tác giả đã thể hiện sự biết ơn và nỗi nhớ về mẹ.
Tà áo nâu in giữa cánh đồng,
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng.
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng.
Tới đường làng gặp những người quen.
Ai cũng khen u nết thảo hiền,
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.
Hai khổ thơ cuối đã cho ta thấy những hoài niệm của tác giả về u. Không chỉ mang nét đẹp ngọt ngào, dịu dàng mà còn mang nét đẹp lao động cần mẫn, chăm chỉ. Tà áo nâu cùng chiếc nón lá, u “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Dưới gió chiều bụi mịt mù, bóng lưng chăm chỉ làm tác giả phân vân không biết là của mẹ hay của thiếu nữ nào. Còn gì vui hay tự hào khi về quê, nghe được những lời khen ngợi về gia đình. Cũng chính vì nết na, thảo hiền, lại chăm chỉ, biết lẽ đúng, u luôn được người làng khen ngời hết lời. U không chỉ là đại diện cho nét đẹp thời xưa của con gái Việt Nam mà còn là biểu tượng đẹp nhất trong lòng con.
Với ngôn từ giản dị, với những nét bút tả thực, hình ảnh làng quê cùng người mẹ đã hiện lên thật đẹp và ý nghĩa. Có thể nói, với mỗi nhà thơ, nhà văn, việc viết lên trang giấy những dòng chữ cùng chính là cách mà họ lưu giữ lại những kỉ niệm, những điều mà họ muốn giữ lại đến muôn đời, và mẹ cùng đường về quê mẹ chính là thứ mà Đoàn Văn Cừ muốn lưu giữ cho bản thân mình.
Phân tích một tác phẩm thơ - mẫu 6
Tú Xương là một nhà thơ được sinh ra và lớn lên trong giai đoạn có thể nói là bi thương nhất của đất nước – nước ta bị Pháp tấn công và thống trị. Trước cảnh đất nước bị tù đày ấy, thơ của ông là một bức tranh hiện thực vừa bày tỏ sự đau xót của một người con nước Nam, đồng thời cũng tố cáo tội ác đen tối của bọn thực dân. Và “Vịnh khoa thi hương” cũng là một tác phẩm như thế.
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu kì thi Hương năm ấy:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”
Kì thi này được tổ chức một cách bình thường, cứ ba năm một lần. Nhưng điều bất thường của nó là, các thí sinh của trường Hà Nội cũng bị dồn về trường Nam Định để thi. Chỉ một từ “lẫn”, tác giả đã khéo léo nói lên tình trạng hồn loạn, bát nháo, tạp nham của khoa thi Hương năm ấy.
Và đúng là, việc thi cử ấy tạp nham thật:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ chai lỉnh kỉnh, không còn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng, nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của toàn xã hội. Thí sinh không còn vẻ nho nhã trí thức thì những vị giám khảo cũng không còn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước nữa, chỉ còn cái dáng “thét loa” như ngoài chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi. Chúng chỉ là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trông thi thì luôn miệng hống hách, quát tháo, sĩ tử đi thi thì lôi thôi, lếch thếch, xiêu vẹo lều chõng lọ giấy đi thi. Thật là đáng buồn và đáng cười thay!
Trong cái nhốn nháo, tạp nham ấy, hai nhân vật “quan trọng” xuất hiện một cách hoành tráng:
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra”
Theo như lịch sử, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng toàn quyền Pháp và vợ chồng tôn công sứ Nam Định đến dự. Đang trong không khí trường thi căng thẳng, vậy mà quan sứ và vợ vẫn được đón tiếp một cách long trọng, “lọng cắm rợp trời”, mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Kẻ xâm lược được đón tiếp một cách tốt nhất, đặt lên một vị trí cao nhất cho thấy một thực trạng đau lòng nước ta thời bấy giờ – một xã hội mà thực dân nắm quyền và xã hội phong kiến chỉ làm bù nhìn. Ở đây, Tú Xương dùng từ vô cùng đắt, gọi “quan sứ” một cách quan trọng, nhưng lại gọi vợ chúng là “mụ đầm”. “Mụ” là một từ để chỉ người đàn bà không ra gì, là cách gọi thô tục. Tú Xương “chửi” một cách vô cùng sắc bén. Vừa châm biếm, nhưng đó cũng vừa là nỗi đau xót, căm hận của một con người phải chứng kiến cảnh nước mất nhà tan.
Trước cảnh nhốn nháo, biến chất ấy, nhà thơ đã phải thốt lên rằng:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”
Hai câu thơ vừa là lời tự vấn bản thân, cũng là tự vấn những người đồng cảnh ngộ. Có mấy người còn nghĩ đến nỗi nhục của cảnh nước mất nhà tan, mà cùng nhau đứng lên hành động? Có bao nhiêu người vẫn đang mù quáng tin vào nhà nước, tin vào chính quyền mà không chịu nhìn vào thực tế?
Thơ của Tú Xương, là sự kết hợp của cả hiện thực và trữ tình. Từ việc tả lại kì thi Hương đã thoái hóa, biến chất, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh đất nước bị tù đày, đàn áp bởi bọn thực dân, đồng thời cũng bày tỏ nỗi niềm đau xót trước cảnh nước mất nhà tan của một người, một thế hệ trí thức yêu nước trước cảnh nước mất nhà tan.