X

500 bài văn mẫu lớp 11

Phân tích 4 câu kết bài thơ Tràng giang năm 2023


Phân tích 4 câu kết bài thơ Tràng giang năm 2023

Bài văn Phân tích 4 câu kết bài thơ Tràng giang gồm dàn ý chi tiết, 5 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 11.

Phân tích 4 câu kết bài thơ Tràng giang năm 2023 - Văn mẫu lớp 11

Đề bài: "Phân tích bốn câu kết trong bài thơ "Trang giang" của Huy Cận:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà".

A/ Dàn ý chi tiết

1. Mở bài: Giới thiệu khổ thơ cuối của bài thơ Tràng Giang

2. Thân bài: Phân tích khổ thơ cuối bài Tràng Giang

2.1. Hai câu đầu: Màu sắc cổ điển của các hình ảnh thiên nhiên

- Các hình ảnh mây, núi, gió được thể hiện rất rõ và nổi bật qua đoạn thơ

- Hình ảnh lớp mây thể hiện nỗi buồn của tác giả vô bờ

- Hình ảnh cánh chim lẻ loi, thể hiện nỗi buồn của tác giả thêm sâu nặng

- Hình ảnh cánh chim không chỉ báo hiệu hoàng hôn mà còn chỉ cái tôi nhỏ nhoi, cô đọng của tác giả

2.2. Hai câu cuối:

- Nhà thơ có cảm giác nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiên

- Nỗi buồn của Huy Cận được thể hiện rất sâu sắc và nổi bật

- Khát vọng sự đẹp đẽ, tươi đẹp về quê hương đất nước, góp sức mình cho quê hương, đất nước

3. Kết bài:

- Nêu cảm nhận của em về khổ thơ cuối của bài Tràng giang

Ví dụ: Khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang thể hiện cảnh núi non hùng vĩ của sông nước. bên cạnh đó còn thể hiện cái tôi nhỏ nhoi của tác giả.

B/ Sơ đồ tư duy

Phân tích khổ cuối trong bài thơ Tràng Giang năm 2023

C/ Bài văn mẫu

Phân tích khổ cuối trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 1

Đọc thơ của Huy Cận người đọc cảm nhận rõ được tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước sâu nặng trong lòng ông. Bằng tình yêu nồng nàn và luôn cháy trong tim ông luôn hướng về quê hương đất nước dù hiện tại ông đang đứng trên mảnh đất quê hương. Khổ cuối bài Tràng giang là tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước.

Tác giả với tình yêu quê hương đất nước yêu cảnh sắc quê hương vì thế mà bức tranh thiên nhiên vẫn tiếp tục được mở ra với những chi tiết mới:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Câu thơ đầu đã gợi mở ra cảnh phía chân trời xa, những đám mây trắng chồng xếp lên nhau trùng trùng điệp điệp dưới phản chiếu ánh dương lấp lánh như núi bạc. Huy Cận học ý thơ của Đỗ Phủ qua bản dịch nghĩa của Nguyễn Công Trứ: “Mặt đất mây đùn từ ải xa.” Đã phác họa bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng đẹp một cách tráng lệ lung linh.

Nhưng đến câu thơ thứ hai: “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”. Thơ xưa khi nói đến chiều thường buồn điểm xuyết trên nền không gian là cánh chim về tổ. Huy Cận vẽ cánh chim trao nghiêng đặt trong dấu hai chấm như để nhấn mạnh cả bóng chiều như rơi xuống góp phần gợi nỗi buồn da diết về sự bé nhỏ của con người giữa cuộc đời. Không gian rộng lớn bao la nhưng lại làm cánh chim nghiêng ngả với đôi cánh nhỏ của mình. Nhưng trong câu thơ trên Huy Cận có nhắc đến thời điểm “bóng chiều” là là khoảng thời gian đặc trưng cho tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương da diết của những người con xa quê chính vì thế mà hai câu tiếp theo đã bộc lộ rõ tâm trạng ấy:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Lần đầu tiên thi sĩ bộc lộ tâm trạng nỗi nhớ quê hương được hiện lên từ khói hoàng hôn, từ con nước dợn dợn. Nó đã gợi ta nghĩ đến cảm giác đang rợn lên trong tâm trí con người hay những con sóng nhấp nhô trên sóng nước rất khó phân định chỉ biết qua từ “dợn dợn” sóng nước, sóng lòng đang hòa quyện vào nhau mênh mang trên dòng sông. Chỉ biết tấm lòng thương nhớ quê hương không chỉ ở trong ý thức mà đã xâm lấn cảm giác của con người thấm thía.

Câu thứ 4 “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” tính đối thoại với một tình cảm quan niệm thơ đi trước cho ta nghĩ đến tiếng thơ của Thôi Hiệu:

“Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

Với Huy Cận không cần khói sóng nào cần đến tác dụng của ngoại cảnh mà vẫn nhớ quê hương, nỗi niềm thương nhớ luôn thường trực trong lòng người. Đó là cách bày tỏ tình cảm thật sâu sắc. Cũng giống như Bà Huyện Thanh Quan:

“Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

Đứng trên quê hương, đất nước mà vẫn nhớ quê hương đất nước. Phải chăng đó là nỗi buồn sông núi của một trí thức yêu nước sống trong thân phận vong quốc nô, nỗi buồn của một thế hệ thanh niên yêu nước sống dưới thời Pháp đương thời.

Bức tranh thiên nhiên gây ấn tượng bởi vẻ đẹp kì vĩ mĩ lệ của khung cảnh trời chiều đậm màu sắc nhưng bức tranh quá rộng lớn làm đầy lên nỗi cô đơn nhớ thương khắc khoải của nhân vật trữ tình.

Tràng giang là tiếng buồn của hồn thơ Huy Cận được gợi lên từ sự đối lập giữa không gian mênh mông cao rộng với nhỏ bé mong manh. Nỗi buồn không hoàn toàn vô cớ đó là nỗi buồn thương về kiếp người cuộc đời về quê hương đất nước. Nỗi buồn gắn với quan niệm thẩm mĩ của các nhà thơ mới cái đẹp sánh đôi với cái buồn. Đó cũng là nỗi buồn của thế hệ thanh niên mà trong thơ của Huy Cận thường đem nỗi buồn vào vũ trụ bao la. Bài thơ còn là sự kết hợp hài hào giữa yếu tố cổ điển và hiện đại với các nghệ thuật thất ngôn trường thiên, phép đối ngẫu, thi tứ, bút pháp tả cảnh ngụ tình lấy điểm tả diện đã làm nổi bật khổ cuối của bài thơ.

Tuy chỉ là một khổ thơ nhưng khổ thơ cuối lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bộc lộ tâm trạng của Huy Cận khi đứng trên quê hương ngắm nhìn cảnh đẹp kì vĩ trên đất nước mình mà trong lòng không khỏi bồi hồi xúc động từ đó bộ lộ tình yêu thiên nhiên yêu quê hương kín đáo mà cũng tha thiết của tác giả.

Khi ta phân tích khổ thơ cuối bài Tràng giang dường như nó giúp khơi gợi trong chúng ta tình yêu quê hương đất nước tha thiết, yêu cảnh sắc quê hương mình từ đó mà dạy chúng ta cách trân trọng cuộc sống, trân trọng những gì đang có.

500 bài mẫu hay nhất

Phân tích khổ cuối trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 2

Trong bài thơ Tràng giang của nhà thơ Huy Cận, khổ thơ cuối là một trong những khổ thơ cô đọng, giàu hình tượng và nghệ thuật nhất, cũng là khổ thơ thể hiện rõ nhất tâm trạng của chủ thể trữ tình. Qua khổ thơ, người đọc có thể thấy được những nét hiện đại pha lẫn với yếu tố cổ điển đã làm nổi bật nên nỗi nhớ nhà và tâm trạng lo lắng trước thời cuộc, vận mệnh đất nước của người thanh niên.

Thiên nhiên trong đoạn thơ này có sự vận động dữ dội, những đám mây trắng từ đâu đùn về tạo thành những dãy núi bạc trên bầu trời in bóng dưới dòng sông, câu thơ như một bức tranh sơn thủy, hữu tình. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” câu thơ cũng gợi lên vẻ đẹp hùng vĩ tráng lệ của non sông mà qua đó ta cảm nhận được tình cảm của thi nhân đối với quê hương đất nước.

Câu thơ thứ 2 là hình ảnh của một cánh chim chiều nhưng được miêu tả rất đặc biệt, bóng chiều như có cả hình khối và sức nặng đang đè lên cánh chim nhỏ nhoi. Con chim thì như đang vội vã chạy trốn bóng chiều đang sa xuống. Hình ảnh thơ như nói hộ nỗi bơ vơ, sự lạc loài của chính nhà thơ bởi giờ đây ông cảm thấy mình cũng như cánh chim nhỏ nhoi kia, muốn chạy trốn cuộc đời nhưng không biết đi về phương nào.

Câu thơ thứ 3 “Lòng quê dợn dợn vời con nước” sử dụng cách nói kiệm lời. Lòng quê tức là nỗi lòng cứ từng đợt, từng đợt trào dâng (dợn dợn), nó cũng giống như những con sóng bên sông cứ tiếp nối nhau về chân trời xa vời vợi.

Nỗi buồn nhớ quê như mênh mang vô tận bao trùm cả không gian. Theo Huy Cận thì thời kì này ông đang sống ở xa quê hương mà như không có quê hương. Trước sông nước mênh mông càng thấy trống vắng lạc loài, càng khao khát sự đoàn tụ, sum vầy.

Câu thơ kết “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi nhớ câu thơ của Thôi Hiệu song ý thơ lại có những nét khác. Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông rồi liên tưởng đến những ngọn khói lam chiều mà lòng trào dâng nỗi nhớ quê hương. Còn ở đây dù không có khói mà cứ chiều xuống nỗi nhớ nhà lại cồn cào đau đầu trong lòng thi nhân. Hình như so với Thôi Hiệu thì nỗi nhớ trong Huy Cận nó canh cánh, da diết, chảy bỏng hơn.

Cả bài thơ Tràng giang vốn đã đượm một nỗi buồn man mác thì đến khổ thơ cuối cùng này, nỗi buồn ấy lại càng như trở nên sâu đậm hơn. Tác giả đã sử dụng hàng loạt từ “cánh nhỏ”, “chiều sa”, “dợn dợn”, “vời”, “nhớ” càng tô đậm thêm nỗi buồn man mác của nhà thơ. Khổ thơ này nhà thơ cũng nhắc đến quê hương và nhà của mình. Dường như sau hàng loạt khung cảnh mênh mang sóng nước, sự trĩu nặng của tâm trạng khi cảnh vật về chiều thì cuối cùng tác giả cũng phải bật thốt lên về nỗi nhớ thương của mình trong khổ thơ cuối cùng này. Phải dồn nén thế nào, nỗi nhớ chan chứa và sâu lắng ấy mới được nhà thơ gói gọn trong hai dòng thơ cuối.

Bài thơ Tràng giang, đặc biệt là khổ thơ cuối cùng, là sự kết tinh của những hình ảnh thơ hiện đại và cổ điển. Cách vận dụng sáng tạo thơ xưa của Thôi Hiệu với sự diễn đạt của riêng nhà thơ đã tạo nên một phong cách rất Huy Cận. Qua đây, người đọc có thể thấy được cảnh đẹp kì vĩ của non sông đất nước và sự cô đơn, lạc lõng của người thanh niên đứng trước trời đất mà bất lực về bản thân.

Phân tích khổ cuối trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 3

Lửa thiêng (1940) của Huy Cận là một tập thơ sáng giá trong Thơ mới Việt Nam. Phong cảnh trong Lửa thiêng, nhất là trong các bài thơ Vạn lí tình, Tràng giang, Đẹp xưa... đều đượm một nỗi buồn man mác:

Tôi ngã ba sông nước bốn bề

Nửa chiều gà lại gáy trên đê.

Đó là con sông Ngàn bên núi Mồng Gà thuộc Hương Sơn (Hà Tĩnh), quê hương thân yêu của nhà thơ. Trong Tràng giang, một nỗi buồn như dồn nén thấm sâu vào cảnh vật và lan xa muôn vàn con sóng, nhất là bốn câu kết của bài thơ:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Bao trùm cả bài thơ là một không gian nghệ thuật bao la, thật đẹp và cũng thật buồn. Có sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp. Có lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu. Có lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng và trước mắt nhà thơ là một khung cảnh bao la, vắng vẻ: Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Khổ cuối nói đến hoàng hôn trên tràng giang. Một cái nhìn xa vời vợi. Trước mắt nhà thơ là những núi mây nhô lên, đùn lên lớp lớp màu trắng bạc. Cảnh sắc thiên nhiên rất tráng lệ. Bầu trời chắc là xanh thẳm, hoặc tím thầm trong khoảnh khắc hoàng hôn nên màu mây ở cuối chân trời mới ánh lên màu bạc ấy. Giữa cái bao la mênh mông bỗng xuất hiện một cánh chim nhỏ nhoi. Cánh chim đang chở nặng bóng chiều, bay vội vã. Trên cái nền tím sẫm, nhạt nhòa của bóng chiều hôm, hiện lên những núi bạc mây cao và một con chim lạc đàn nghiêng cánh nhỏ. Hai nét vẽ ấy tượng trưng cho những cảnh chiều hôm trong tâm tưởng người lữ thứ: Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi (Bà Huyện Thanh Quan), Chim hôm thoi thóp về rừng (Nguyễn Du). Nghệ thuật tương phản giữa cánh chim nghiêng nhỏ bé và mờ dần với núi mây bạc hùng vĩ, với trời đất bao la đã làm cho cảnh đất trời và tràng giang thêm mênh mông hơn, xa vắng hơn, và cũng buồn hơn.

Bốn câu kết mang ý vị cổ điển rất đậm đà. Ý vị ấy, màu sắc ấy được thể hiện ở hình ảnh nhà thơ một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vô cùng của không gian, thời gian đối với kiếp người hữu hạn. Một cánh chim, một núi mây bạc cũng dẫn hồn ta đi về mọi nẻo, đến với mọi phía chân trời: Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm - Mặt đất mây đùn cửa ải xa (Đỗ Phủ). Ý vị cổ điển ấy lại được tô đậm bằng một tứ thơ Đường:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Hơn mười hai thế kỉ trước, trong bài thơ Hoàng Hạc lâu, Thôi Hiệu đã viết:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

(Tản Đà dịch)

Huy Cận nhìn cao rồi nhìn xa theo tràng giang vời con nước, ở trên nhà thơ đã phủ định: Mênh mông không một chuyến đò ngang - Không cầu gợi chút niềm thân mật thì ở đây, ông lại nói: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Nỗi buồn cô đơn và nỗi nhớ quê tràn ngập tâm hồn khách tha hương trong buổi hoàng hôn, bên dòng sông đang mải miết trôi về tận phương nào xa xôi.

Thơ Huy Cận hàm súc, cổ điển và thấm đẫm màu sắc triết lí suy tưởng. Một hồn thơ bơ vơ, sầu não ấy luôn hướng tới sự giao hòa giữa con người và tạo vật trên một không gian mênh mông, vắng lặng. Cảnh sắc trong Tràng giang đẹp mà buồn. Tình quê, lòng quê trong bốn câu kết thật vô cùng sâu sắc, thắm thiết. Đó là những vần thơ mãi mãi vương vấn lòng người trong mọi thời gian và không gian.

Thơ thất ngôn trong Tràng giang mang vẻ đẹp cổ kính, trang trọng. Mỗi khổ thơ nếu đứng tách riêng ra sẽ trở thành một bài tứ tuyệt thể hiện sâu sắc cảm hứng mà tác giả đã viết trong lời đề từ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Nỗi buồn bâng khuâng và nỗi nhớ ấy là của một tấm lòng đang hoài vọng quê hương. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng như muôn ngàn sóng gợn buồn điệp điệp trong lòng người đọc bấy lâu nay. Cảnh sắc hoàng hôn và lòng quê được nói đến trong đoạn thơ mãi mãi khơi gợi trong ta hình bóng quê hương yêu dấu. Tràng giang đã và đang mang theo bao vạn lí tình trong hồn ta.

500 bài mẫu hay nhất

Phân tích khổ cuối trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 4

Nền thơ 1930 – 1945 đã đóng góp cho thi đàn văn học Việt Nam nhiều phong cách độc đáo. Nếu ta theo Thế Lữ vào giấc mơ tiên, vào cuộc đời bất tận theo cách sôi nổi cuống quýt vội vàng của Xuân Diệu “muốn cắn trái xuân hồng” thì ta cũng có thể đi theo Huy Cận đi vào bể sầu nhân thế. Chẳng cần đi tới tập thơ Lửa thiêng chỉ riêng bài Tràng giang cũng đã làm nên hồn thơ “ảo não” Huy Cận. Và khổ thơ cuối là khổ thơ sâu lắng tha thiết nhất trong trường buồn Tràng giang của ông.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Nếu như trong ba khổ thơ đầu chúng ta thấy tâm trạng buồn của một “nỗi buồn” thế hệ mang tính thời đại, một nỗi buồn không tìm ra lối thoát nó như kéo dài triền miên, nó như dàn trải theo mênh mông vô địch của sông nước, thì tới khổ thơ cuối tâm trạng ấy được nâng lên chiều cao, lan tỏa trong khói hoàng hôn của buổi chiều tàn.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Ở dòng thơ này ta thấy đôi mắt của nhà thơ dường như đang nhìn thấy rất xa nơi cuối chân trời “Tràng giang”. Thật vậy không gì vui bằng lúc rạo rực bình minh, nhưng cũng không gì buồn bằng cái buổi ngày tàn của“bóng chiều sa”. Nhưng chính lúc ấy trong thơ Huy Cận với “Tràng giang” lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây hợp thành “núi mây” khổng lồ, được vạt nắng chiếu rọi thành “núi bạc”. Những đám mây trắng xốp ấy cứ to dần lên như hình quả núi và đằng sau hình quả núi ấy là một mặt trời chói lọi sắp tắt khiến cho núi mây trở thành núi bạc, một cảnh rực rỡ hiếm có khi hoàng hôn đang lụi dần, không gian dường như có một sự vận động lặng lẽ: mây cứ đùn lên mãi chiếm lĩnh cả bầu trời cao, khiến cho ở đấy mây cũng đầy nỗi buồn rợn ngợp.

Tác giả đã dùng cái có của thiên nhiên để nói về cái không của tình người trong cái bể trời bao la ấy. Câu thơ gợi nhớ nỗi buồn của Đỗ Phủ khi ông không chốn nương thân da diết nhớ quê hương:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Ta thấy trong suốt hành trình Tràng giang hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ “trôi nổi mông lung lạc loài vô định”, một cành củi khô bập bềnh trôi trên sông (củi một cành khô lạc mấy dòng), một đám bèo xanh trôi nổi trên sông (bèo dạt về đâu hàng nối hàng). Với khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một hình ảnh cô đơn lạc loài. Đó là một cánh chim, chim nhỏ nhoi đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh nhỏ cố bay về chân trời xa vắng.

Cánh chim bay lượn tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quá, nỗi buồn ở đây càng thêm da diết trong nhớ thương. Nó không đóng khung cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa. Nếu như câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo lại trĩu xuống theo hình ảnh “bóng chiều sa”. Có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng một tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ “sa” chứ không phải là “xa”. Phải chăng cái nỗi buồn cô đơn cùng nỗi buồn “sầu nhân thế” đó càng gợi lên trong nỗi buồn của nhà thơ. Nó thể hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái vô tận của không gian đối lập với kiếp người.

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Chuyển sang câu thơ thứ ba đột ngột xuất hiện hai tiếng “lòng quê” không phải là ánh mắt nhìn vào mình, nhìn theo đến hun hút vào “tràng giang” mà chính là cõi lòng nhìn vào mình rồi nhìn về phía chân trời xa xôi.

“Lòng quê” đó là nỗi lòng nhớ quê hương. Và cũng có nghĩa diễn nôm na là: của người trí thức tây học này vốn đã bị thị thành hóa giờ đây nó đang trở lại thành tấm lòng của người cố hương giàu tình làng nghĩa xóm. Hai nghĩa trên nó sẽ định ra cho sự giải thoát cô đơn. Phải thành cái mình thứ hai nữa mới trở về chính quê hương mình.

Hai tiếng “dợn dợn” gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước, sóng lòng diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mông trong khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê cố hương:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

Dòng thơ cuối cùng gợi ngay đến 2 câu thơ của Thôi Hiệu thời Đường cũng là tâm tình quê của Huy Cận. Với Huy Cận lòng quê đã nhớ quê sẵn. Đó là nhớ nhà, nhớ những người ruột thịt, những gốc chuối bờ tre. Vì thế không có một sự gợi ý ngoại cảnh thì tấm lòng ấy vẫn đăm đắm hướng về quê nhà để hi vọng kiếm một chút niềm thân mật ở làng quê sông nước, nơi chôn nhau cắt rốn của mình.

Mới đọc bài thơ Tràng giang ta có cảm tưởng tất cả bài thơ là thiên nhiên. Nó rất hoang vắng, nó độc thoại với chính nó. Thế nhưng bốn dòng thơ cuối bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. Và ở hoàn cảnh đất nước bị đô hộ càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu thì thi nhân càng “ảo não” bấy nhiêu.

Phải chăng ai đó đã nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất, tiềm ẩn nhất với đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng giang đã khơi dậy tâm hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng cao cả, nó mở đường cho tình yêu Tổ quốc, tình yêu giang sơn đất nước.

Phân tích khổ cuối trong bài thơ Tràng Giang – mẫu 5

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông chịu ảnh hưởng của thơ Đường, thơ Pháp, giọng thơ ảo não. Thơ Huy Cận trước cách mạng tháng 8 thường mang tâm trạng buồn, u uất. Đó cũng là một tâm trạng chung của cả thế hệ một dân tộc.

Bài thơ "Tràng giang" được trích từ tập "Lửa Thiêng" thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương trong cảnh hoàng hôn trước tràng giang.

Khổ thơ cuối là nỗi nhớ trào dâng của tác giả, một nỗi nhớ quê hương da diết khi đứng trước hoàng hôn, nơi sông dài trời rộng:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

....

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"

Đây là khổ thơ kết tinh của làng quê "dợn dợn vời con nước" của Huy Cận, của một tấm lòng sâu lắng thiết tha với quê hương, đất nước.

Hai câu đầu là một bức tranh nhiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa"

Cách cảm nhận của nhà thơ hết sức tinh tế tạo nên những nét vẽ hoành tráng của thiên nhiên buổi chiều: "lớp lớp mây" chồng xếp lên nhau thành núi mây trắng trông như được dát bạc. Từ "đùn" rất giàu giá trị tạo hình gợi nhớ đến hai câu thơ của Đỗ Phủ:

"Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm

Mặt đất mây đùn cửa ải xa"

Một cánh chim nhỏ xuất hiện trong câu thơ gợi ấn tượng về sự cô đơn, bơ vơ, nhỏ nhoi đến tội nghiệp khiến cho không gian càng thêm rộng lớn. Một cách cảm nhận vừa gần gũi, vừa tinh tế. Hình ảnh bóng chiều như thu lại sa xuống từ cánh chim:

"Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa"

Trước không gian vô tận ấy, tâm trạng nhà thơ là nỗi nhớ nhà:

"Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"

Tư thế ấy có khiến ta liên tưởng đến Lý Bạch:"Cửa đầu vọng minh nguyệt - Đê đầu tư cố hương"?

Âm hưởng hai câu thơ Đường thi tuyệt tác của Thôi Hiệu phảng phất ở đây:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Thế nhưng Thôi Hiệu phải có "khói sóng" mới "buồn lòng ai". Còn nhà thơ của chúng ta "không khói hoàng hôn" mà "lòng quê" vẫn "dợn dợn vời con nước"! Từ láy "dợn dợn" và từ "vời" khiến nỗi buồn triền miên, xa xôi, dàn trải mãi đến vô tận, đến khôn cùng!

Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, Huy Cận đã trải lòng mình trên từng trang thơ để thể hiện tình yêu quê hương , đất nước tha thiết.

Huy Cận vốn là một trong những nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới. Thơ ông vốn đặc biệt vì trong hồn thơ luôn ẩn chứa một nét hoài cổ buồn và sầu. Đặc biệt là bài thơ Tràng Giang với khổ thơ thứ tư đã cho ta thấy rõ điều đó.

Đó là một khổ thơ rất đẹp trong bài, tuy mang một chút buồn. Một vẻ đẹp của một buổi chiều trên sông nước, gợi một nỗi buồn sầu nhân thế:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Đây là một bức tranh thiên nhiên tả cảnh buổi chiều, rất sinh động. Đọc câu thơ đầu, ta tự hỏi. Phải chăng đây còn là câu thơ nổi bật một nỗi sầu trong thi sĩ, nỗi sầu này đang dâng lên trùng trùng lớp lớp, như dồn nén và ứ đọng lại trong mảnh hồn của thi nhân, đến tràn ngập cả bầu trời. Đặc biệt trong thơ Huy Cận luôn ẩn chứa những hình ảnh cánh chim, một trong những hình ảnh thường xuất hiện trong thơ ca cổ. Nét cổ điển một cánh chim nhỏ chấm phá trên nền trời khi chiều bắt đầu buông, thể hiện rõ nét sự nhỏ bé, đơn côi trong lòng thi sĩ và càng khiến bài thơ trở nên mông lung, vắng lặng, buồn hiu hơn nữa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Đây là hai câu thơ đã diễn tả được hết nỗi nhớ quê hương và tình yêu với tổ quốc trong lòng thi sĩ. Thơ Huy Cận mang nặng ý vị cổ điển là đây. Trời rộng, sông dài, một người đứng đơn côi giữa mênh mông rộng lớn, khiến ta liên tưởng một ý thơ toát ra từ thơ Đường:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

Người xưa nhìn sóng trên sông nên nỗi nhớ nhà càng thấm thía. Thì Huy Cận không cần điều đó, cái hồn sầu trong lòng đã như ngấm vào máu, thấm vào từng tế bào của nhà thơ mất rồi. Thể hiện một sự mến thương cao độ, một tấm lòng yêu nước thiết tha của Huy Cận, và còn thường trực hơn nhiều. Và đây cũng là một nét tâm trạng của thanh niên tiểu tư sản lúc bấy giờ.

Tố Hữu đã nói “sống giữa quê hương mà bơ vơ như kiếp đi đày” quả thực nói rất đúng về tâm trạng thanh niên nói chung và tâm trạng riêng của Huy Cận trong khổ thơ này. Và càng cho ta hiểu nỗi buồn thấm thía của một thời đất nước ta lúc bấy giờ.

Là khổ thơ xuất sắc nhất trong tác phẩm, và cũng là khổ thơ thể hiện rõ nhất nét tâm trạng của một chàng trai trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ. Thế mới hiểu vì sao người ta nói Huy Cận là cái mảnh hồn thiêng sông núi, và là nỗi sầu của nhân thế. Nhờ kết hợp những biện pháp nghệ thuật tài hoa đã làm nổi bật giá trị nội dung, tư tưởng của một phong cách thơ mới tài năng. Và Huy Cận mãi về sau khi nhắc đến vẫn sẽ luôn là một mảnh hồn không thể tách rời với văn học Việt Nam.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 11 chọn lọc, hay khác: