Phân tích truyện ngắn Người trong bao năm 2023
Phân tích truyện ngắn Người trong bao năm 2023
Bài văn Phân tích truyện ngắn Người trong bao gồm dàn ý chi tiết, 5 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 11.
Phân tích tác phẩm Người trong bao - mẫu 1
Sê-khốp là nhà văn lớn, là cây đại thụ trong nền văn học Nga, ông đã để lại cho nhân loại một kho tàng những tác phẩm có giá trị vô cùng to lớn. Dưới ngòi bút của nhà văn, toàn cảnh xã hội Nga cuối thế kỷ XIX hiện lên một cách rất chân thật, đó là một đất nước ngột ngạt, tù túng, chuyên chế bảo thủ dưới thời kỳ nắm quyền của Nga hoàng. Nhà văn Sê-khốp có lối viết văn rất lôi cuốn, ngôn ngữ sinh động tự nhiên, phản ánh chân thực con người và xã hội Nga lúc bấy giờ.
Truyện ngắn Người trong bao được ông viết năm 1898, đã khắc hoạ thành công hình tượng nhân vật Bê-li-cốp, một anh giáo chức tỉnh lẻ với cái đầu chứa đầy thành kiến, qua đó tác giả châm biếm và đả kích những người tri thức Nga với lối sống “trong bao” cổ hủ, lạc hậu, thích phê phán, bất an trước những gì vượt ra ngoài giới hạn cho phép của mình, và tự coi đó là lỗi lầm của người khác.
Nhân vật chính trong truyện là Bê-li-cốp, một giáo viên dạy tiếng Hy Lạp có lối sống rất kỳ lạ “sống đơn độc như những con ốc, con sên cố thu mình vào vỏ bọc”. Hắn khác thường trong cả cách sống và lối suy nghĩ dị hợm. Lúc nào cũng vậy, bất kể trời mưa hay nắng, thời tiết đẹp hay xấu hắn đều khoác lên mình một bộ trang phục hết sức kỳ cục. Hắn “đi giày cao su” tay cầm ô, mặc áo “bành tô ấm cốt bông”, hắn luôn mang theo bên mình chiếc bao làm bằng da hươu để dựng nào là ô, chiếc đồng hồ quả quýt, nào là dao nhỏ gọt bút chì, ngay cả bộ mặt hắn dường như cũng muốn để cả vào trong bao, bởi Bê-li-cốp luôn “giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bẻ đứng lên”. Không những thế anh ta còn đeo kính râm, và nhét bông vào tai, đi xe ngựa thì bao giờ cũng phải “cho kéo mui lên”. Với cách miêu tả chân thật, sinh động của tác giả, Bê-li-cốp hiện lên như một kẻ dị hợm và rất nực cười. Giọng văn của Sê-khốp rất hóm hỉnh, hài hước, không cần phải là những câu văn hoa mỹ, chỉn chu nhưng vẫn làm hiện trong đầu người đọc một hình tượng nhân vật “người trong bao” điển hình thuở bấy giờ.
Bê-li-cốp không sống như người thường, có lẽ hắn chỉ đang tồn tại mà thôi, hắn chán ghét cuộc sống, sợ hãi mọi thứ trên cuộc đời. Để bào chữa cho thái độ nhút nhát, hèn kém không dám đối diện với hiện tại của mình hắn luôn nhớ về quá khứ, “ca ngợi những thứ không bao giờ có thật”. Bê-li-cốp chọn dạy tiếng Hy Lạp, một thứ ngôn ngữ cổ, có lẽ đó là môn học an toàn, không có gì đáng phàn nàn “nhờ đó hắn có thể trốn tránh được cuộc sống thực”. Phải chăng đã quen với lối sống tù túng, ngột ngạt mà bất kể thứ gì anh ta muốn làm đều phải thông qua “chỉ thị, thông tư”, còn nếu như không có chỉ thị, thông tư hay bất cứ quy định nào thì đều không được làm. Cứ mỗi lần có ý định thoát ra khỏi “cái bao” của mình thì hắn lại sợ hãi “nhưng lỡ lại xảy ra chuyện gì” và cứ thế hắn không bao giờ thoát ra khỏi cái “vỏ ốc sên” kia cho đến cuối đời. Mỗi khi có chuyện gì trái với khuôn phép, trái với lẽ thường đều làm hắn rầu rĩ mặc cho chuyện đó vốn “chả liên quan gì đến hắn”. Đáng buồn thay điều gì đã khiến Bê-li-cốp trở thành kẻ có tính cách lạ lùng và có phần bệnh hoạn như vậy? Chắc bởi sống dưới thời Nga hoàng chuyên chế nặng nề cùng với những giáo điều thắt chặt đã làm cho một người bình thường phải ép bản thân đi vào khuôn phép, cả đời sống trong tù túng, bó buộc. Bê-li-cốp vừa đáng thương vừa đáng giận, vừa hèn kém nhưng cũng thật tội nghiệp biết bao!
Cách sống của Bê-li-cốp cũng rất lạ thường và lẩm cẩm. Hắn cho rằng việc đến nhà các đồng nghiệp ngồi im cả tiếng đồng hồ không nói năng gì rồi rời đi là để "duy trì những mối quan hệ tốt với bạn bè". Có thể nói Bê-li-cốp cũng sợ cô đơn nhưng hắn hoàn mất đi khái niệm về lẽ sống đúng nghĩa, “kẻ dị hợm” bao năm thao túng cả thành phố nhỏ bé này, làm tất cả mọi người đều đâm ra “sợ tất cả”, “cái thằng cha quanh năm đi giày cao su và mang ô ấy” khống chế cả trường học, ngay cả thầy hiệu trưởng cũng phải sợ hắn. Ngay cả khi ở nhà, hắn cũng sống trong sợ hãi: “Mặc áo khoác ngoài, đội mũ, đóng cửa, cài then”, như kẻ mắc bệnh hoang tưởng hắn sợ bóng tối, sợ ánh sáng, sợ ăn trộm,… Và trong đầu luôn tồn tại cái suy nghĩ nhạt nhẽo “lỡ lại xảy ra chuyện gì”. Sê-khốp đã cho người đọc cảm nhận được cái lối sống ấy dường như đã bao trùm lên cả bầu trời một màu tối đen đáng sợ, những “người trong bao” họ đã chết ngay cả khi đang sống, chưa bao giờ cảm nhận được hạnh phúc, tâm hồn luôn nặng trĩu như người sống trong ngục tù âm u, lạnh lẽo.
Ấy vậy, mà một người dị biệt đã ngoài tứ tuần như Bê-li-cốp lại từng tính đến chuyện sẽ kết hôn. Mọi người ra sức ghép đôi cho hắn với nàng Va-ren-ca xinh đẹp, có lẽ họ nghĩ hắn sẽ thay đổi lối sống khi có tình yêu của một người phụ nữ sôi động, nồng thắm. Chỉ vì chuyện này, hắn đã suy nghĩ nhiều đến mức “gầy gò hẳn đi, mặt mày nhợt nhạt”, sự việc đến quá đột ngột khiến một kẻ hèn nhát sợ hãi đủ thứ trên đời như hắn lại càng “thu mình sâu hơn vào trong bao”. Phải chăng hắn là một kẻ cổ hủ với cái đầu chứa đầy thành kiến? Chỉ vì nhìn thấy chị em Van-ren-ca đi xe đạp giữa phố đã khiến hắn sửng sốt, tình yêu vì thế mà cũng phai mờ đi. Cuộc đời của tên nhà giáo tỉnh lẻ Bê-li-cốp cũng thật là bi hài! Chẳng phải vậy thì sao chỉ bằng “tiếng cười phá lên” của Va-ren-ca khi chứng kiến hắn bị xô ngã nơi chân cầu thang, đã có thể chấm dứt tất cả “chuyện cưới xin” và “cả cuộc đời của Bê-li-cốp”. Một tháng sau Bê-li-cốp chết, vẻ mặt hắn lúc nằm trong quan tài “hiền lành, dễ chịu” và có phần “tươi tỉnh” chắc vì đang hạnh phúc khi được vĩnh viễn chui vào trong cái bao của mình, không còn phải đối diện với cuộc sống ngoài kia nữa. Đây quả là một bức tranh biếm hoạ cười ra nước mắt, một người sao có thể ngủ “không bao giờ dậy nữa” chỉ vì một tiếng cười? Nhưng đối với Bê-li-cốp đấy là cả một sự nhục nhã, một kẻ luôn sống với giáo điều, một kẻ đạo đức giả chuyên dạy đời người khác như hắn thì đó quả là một sự đả kích quá lớn đến nỗi không có cách nào vượt qua.
Cứ ngỡ Bê-li-cốp chết đi, cuộc sống trong thành phố sẽ thay đổi màu sắc mới, không khí mới. Nhưng không, cuộc sống “nhẹ nhàng thoải mái” chẳng thể nào kéo dài lâu, thay vào đó là cuộc sống vô vị, nhàm chán “chẳng khác lúc trước là bao”. Những kẻ “sống trong bao” không chỉ có mình Bê-li-cốp mà họ đầy rẫy trong xã hội Nga khi ấy và “trong tương lai sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa”. Nhà văn Sê-khốp đã tái hiện thành công cái lối sống dung tục, tầm thường, lạc hậu, sặc mùi giáo điều đã đầu độc người dân, đẩy họ vào cuộc sống đau khổ, tù túng, đã để lại bao hệ quả nặng nề tồn tại trong đất nước Nga cuối thế kỷ XIX. Ngôn ngữ chân thực, mộc mạc mà không kém phần sinh động đã góp phần xây dựng cốt truyện lôi cuốn hấp dẫn người đọc, tạo nên một hình tượng nhân vật đặc sắc điển hình “Người trong bao”.
Người trong bao của Sê-khốp là một tác phẩm mang lại cho người đọc thật nhiều cảm xúc, vừa bi hài vừa đáng để suy ngẫm, vừa tiếc thương cho một kiếp người sống vô nghĩa. Qua truyện ngắn, nhà văn không chỉ phản ánh khách quan hiện thực xã hội Nga lúc bấy giờ, mà ông còn khéo léo nhắc nhở mỗi con người: Hãy nhìn cuộc sống với sự lạc quan vốn có, giữ cho tâm không phê phán, hơn thua. Nếu ta cảm thấy cuộc sống không hạnh phúc, vấn đề không phải do một ai khác mà nó nằm ngay chính tâm ta. Chúng ta hãy mở rộng tấm lòng với mọi người và với thế giới xung quanh, tiếp nhận những sự đổi mới để có được một cuộc sống hạnh phúc, ngập tràn tươi trẻ, đừng sống như nhân vật Bê-li-cốp, suốt đời sống trong cái vỏ bọc hài hước của mình, rồi đến cuối cùng cuộc đời chấm dứt trong vô vị, nhạt nhẽo.
Phân tích tác phẩm Người trong bao - mẫu 2
A.P.Sê-khốp (1860 – 1904) xuất thân từ một gia đình buôn bán nhỏ bên bờ biển A-dốp, miền Nam nước Nga. Ông tốt nghiệp Đại học Y khoa, vừa làm bác sĩ nông thôn vừa viết văn, viết báo và tham gia các hoạt động giáo dục, văn hóa, xã hội. Sê-khốp đã có những đổi mới táo bạo về nghệ thuật viết truyện ngắn và kịch, ông đã để lại cho đời hơn 500 tác phẩm mà nội dung thường xoay quanh những vấn đề có ý nghĩa xã hội và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Sê-khốp được trao Giải thưởng Pu-skin năm 1887 và được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nga năm 1890. Ông được tôn vinh là nhà văn lớn của nền văn học Nga thế kỉ XIX.
Truyện ngắn Người trong bao sáng tác năm 1898, trong thời gian Sê-khốp an dưỡng ở thành phố l-an-ta. Xã hội Nga đương thời đang ở tình trạng bế tắc và ngạt thở bởi bầu không khí chuyên chế nặng nề. Môi trường ấy đã đẻ ra những kiểu người kì quái mà Bê-li-cốp là một nhân vật điển hình đặc sắc của nhà văn sê-khốp trong tác phẩm Người trong bao.
Qua truyện ngắn này, Sê-khốp phô phán mạnh mẽ kiểu "người trong bao", "lối sống trong bao" cùng tác hại của nó đối với hiện tại và tương lai nước Nga; đồng thời cảnh báo và kêu gọi mọi người cần phải thay đổi cách sống, không thể sống tầm thường, hèn nhát, ích kỉ, vô vị và hủ lậu mãi như thế.
Truyện kể về Bê-li-cốp, một giáo viên trung học dạy tiếng Hi Lạp có có cuộc sống và tính cách dị thường. Anh ta luôn sợ hãi cho nên không bao giờ dám bộc lộ ý nghĩ của mình trước người khác. Để tạo cảm giác an toàn, Bê- li-cốp đi giày cao su, che ô, mặc áo bành tô cốt bông, đeo kính đen, kéo cổ áo lên cao giấu kín mặt. Trong cái vỏ bọc linh kỉnh đó, anh ta thấy yên tâm.
Bê-li-cốp say mê và tôn sùng quá khứ đến mức cực đoan. Theo anh ta thì tiếng Hi Lạp cổ là một ngôn ngữ tuyệt vời hơn hết thảy, nhờ nó mà anh ta có thể trốn tránh hiện thực. Thói quen của Bê-li-cốp là đến nhà những giáo viên cùng trường, tự kéo ghế và ngồi im lặng khoảng một tiếng rồi về. Đó là cách anh ta duy trì quan hệ đồng nghiệp. Khi đi ngủ, anh ta thường đóng cửa kín mít rồi kéo chăn trùm đầu mặc dù trời rất nóng, vì sợ nhỡ có việc gì xảy ra thì sao ?
Bê-li-cốp định ngỏ lời cầu hôn với Va-ren-ca, chị gái của một giáo viên trẻ mới về trường. Có kẻ nào đó đã vẽ bức tranh châm biếm dề dòng chữ Một kẻ si tình rồi gửi cho Bê-li-cốp. Hôm sau, anh ta ngạc nhiên khi nhìn thấy hai chị em Va-ren-ca và Cô-va-len-cô phóng xe đạp rất nhanh ngoài đường nên quyết định sẽ góp ý với họ. Cô-va-len-cô nổi nóng cự lại và đẩy Bê-li-cốp ngã lộn nhào xuống cầu thang, đúng lúc Va-ren-ca đi đâu về. Va-ren-ca nhìn thấy cảnh đó và cất tiếng cười nhạo báng.
Trở về nhà, Bê-li-cốp vừa buồn bực vừa nhục nhã. Anh ta trùm chăn kín mít và nằm im lặng trên giường, ai hỏi gì thì chi đáp không hay có. Một tháng sau thì anh ta chết.
Cái bao thường dược dùng để gói, đựng đồ vật, hàng hóa, có hình túi hoặc hình hộp. Sê-khốp đã biến nó thành một biểu tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa ngụ ngôn trong tác phẩm của mình. Cái bao được tác giả nhắc đến nhiều lần và gắn chặt với nhân vật Bê-li-cốp. Nhà văn đã dùng hình ảnh cái bao để nói về lối sống, tính cách của Bê-li-cốp và hơn thế, ông đề cập đến kiểu "người trong bao", "lối sống trong bao", một kiểu người và lối sống phổ biến trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX. Đây là vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc của tác phẩm.
Có thể khái quát con người và tính cách cửa Bê-li-cốp bằng những hình ảnh, từ ngữ như hèn nhát, cô độc, máy móc, giáo điều, thu mình trong "bao", trong vỏ ốc và cảm thấy yên tâm, mãn nguyện về lối sống đó.
Chân dung Bê-li-cốp được tác giả miêu tả và thể hiện bằng những nét vẽ thần tình. Chân dung kì quái ấy dần dần được bổ sung, tô đậm thêm, về hình thức, Bê-li-cốp "nổi tiếng" vì cách phục sức khác người: cặp kính đen to tướng che gần hết khuôn mặt nhợt nhạt, choắt như mặt chồn, chiếc áo bành tô cốt bông bẻ cổ đứng lên, lỗ tai nhét bông, chân đi giày cao su… Tất cả các vật dụng lúc không dùng đến anh ta đều để trong bao.
Bê-li-cốp luôn tự tin và tự hào về cách sống "đúng mực" của mình. Anh ta kinh ngạc và không thể chấp nhận lối sống tự nhiên của chị em Va-ren-ca; thực sự hoảng hốt khi có người dám vẽ bức tranh châm biếm chế giễu tình yêu của mình. Bê-li-cốp càng không hiểu nổi vì sao anh chàng giáo viên Cô- va-len-cô lại có thể đối xử thô bạo, bất nhã với mình đến như vậy?!
Quả thật, Bê-li-cốp không hiểu gì về đồng nghiệp, về xã hội và cuộc sống xung quanh. Anh ta luôn đắm chìm trong quá khứ, trong những giáo điều cũ kĩ, lạc hậu, giống như cặp kính đen luôn che kín đôi mắt nhỏ. Bê-li-cốp quả thật là một con người lạc lõng, cô độc và kì quái, chẳng thể nào hòa hợp với mọi người.
Bê-li-cốp luôn trốn tránh cuộc sống hiện tại nhưng lại tôn thờ và ngợi ca quá khứ. Anh ta say mê tiếng Hi Lạp cổ mà rất ít người biết và cho đó là thứ tiếng tuyệt vời. Anh ta sống một cách rập khuôn, cứng nhắc theo những thông tư, chỉ thị của cấp trên, của chính quyền như một người máy vô hồn và cho rằng chỉ những bài báo cấm đoán điều này điều nọ mới là những cái rõ ràng. Bê-li-cốp sống trong tình trạng cô độc và luôn luôn lo lắng, sợ hãi, sợ tất cả. Lời nói cửa miệng: …sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì thì sao ? góp phần khắc họa tính cách nhút nhát đến mức lập dị của Bê-li-cốp.
Tính nết kì quặc của Bê-li-cốp còn được tô đậm qua thói quen đến nhà đồng nghiệp ngồi im như phỗng độ một giờ rồi cáo từ. Anh ta cho rằng đó là cách để duy trì mối quan hệ tốt với đồng nghiệp. Buồng ngủ của Bê-li-cốp cũng là một cái bao lớn mang hình dáng của một cái hộp. Đêm đêm, anh ta đóng chặt tất cả cửa lớn cửa nhỏ rồi trùm chăn kín đầu mà ngủ, mặc dù trời nóng bức, ngột ngạt.
Bê-li-cốp tự coi lối sống của mình là "chuẩn mực" nên thỏa mãn, hài lòng với những gì cổ lỗ, lạc hậu. Anh ta tuân thủ "lối sống trong bao" và khẳng định như thế mới là công dân tốt, là viên chức mẫn cán.Trên cơ sở triết lí sống "chui trong vỏ ốc" đó, Bê-li-cốp không thể nào chịu đựng và hiểu nổi cách sống cùng thái độ của mọi người xung quanh, cho nên anh ta hay phán xét và khuyên giải theo ý mình.
Lối sống "trong bao" của Bê-li-cốp đã ảnh hưởng không nhỏ đến cái xã hội nhỏ bé nơi anh ta dạy học. Ai cũng chán ghét và sợ hãi khi gặp anh ta, không muốn dây vào làrn gì. Cũng có người muốn thử thay đổi cách sống của Bê-li-cốp, song chẳng ăn thua. Lối sống "trong bao" ấy ám ảnh và tác động tiêu cực tới mọi người bởi suốt mười lăm năm trời, họ phải hít thở bầu không khí ô nhiễm do Bê-li-cốp tạo ra. Anh ta đã trùm một cái bóng nặng nề u ám lên bầu không gian của họ, khiến họ có cảm giác nghẹt thở. Mọi người sợ hãi, căm ghét và bị ám ảnh sâu sắc khi Bê-li-cốp còn sống. Bởi vậy khi Bê- li-cốp chết, mọi người nhẹ nhõm như trút đi được gánh nặng, cuộc sống thoải mái, dễ chịu hẳn ra.
Với Bê-li-cốp, cái chết này là một lôgic tất yếu trong sự phát triển của tính cách nhân vật. Lối sống "trong bao" bản thân nó đã là một cái chết, chết trong khi đang sống. Hơn thế, ngay trong lúc sống, khát vọng mãnh liệt nhất của Bê-li-cốp là được chui vào bao. Kể cả ý nghĩ, vốn là sở hữu của riêng mình anh ta cũng giấu kín, cho vào bao tuốt! Niềm hạnh phúc lớn lao của Bê- li-cốp là từ nay (sau khi chết), anh ta sẽ được nằm trong cái bao vĩnh viễn, không còn phải lo lắng nhỡ lại xảy ra việc gì thì sao?
Hình ảnh cái chết của Bê-li-Cốp là một trong những chi tiết quan trọng của tác phẩm. Bằng cái chết khá lạ lùng này, nhà văn đã tô đậm và đẩy tính cách của nhân vật lên tới điểm đỉnh. Cái chết của nhân vật Bê-li-cốp chỉ ra cho mọi người thấy thực chất lối sống "trong bao" và tính cách ấy đâu phải chi có ở một mình anh ta. Anh ta chết nhưng rồi mọi thứ lại đâu vào đấy, vẫn y nguyên. Cuộc sống vẫn nặng nề, mệt nhọc, vô vị, tù túng y như khi Bê-li-cốp còn sống và kiểu người như anh ta vẫn nhan nhản trên đời. Qua chi tiết ấy, nhà văn Sê-khốp nhấn mạnh rằng Bê-li-cốp chính là điển hình cho một kiểu người, một hiện tượng xã hội đáng báo động trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX. Nó chỉ chấm dứt khi có một cuộc cách mạng xã hội thay đổi tận gốc rễ quan niệm sống, nếu không thì cũng giống như cái xác Bê-li-cốp nằm trong quan tài kia thôi. Mặc dù Bê-li-cốp chết nhưng lối sống "trong bao" của anh ta vẫn tồn tại.
Tài năng của Sê-khốp thể hiện rất rõ qua nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, qua cách chọn ngôi kể, cách xây dựng nhân vật điển hình. Vì thế nến truyện ngắn Người trong bao đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Nhân vật điển hình Bê-li-cốp tuy có nét riêng kì quái không giống bất cứ ai nhưng lại tiêu biểu cho một kiểu người, một lối sống khá phổ biến trong xã hội Nga đương thời. Bê-li-cốp đã vĩnh viễn nằm trong bao cách đây hơn thế kỉ, nhưng kiểu "người trong bao" và lối sống "trong bao" cùng những biến thể của nó vẫn tồn tại đây đó trong xã hội hiện đại. Chẳng hạn vẫn có không ít người chẳng bao giờ dám sống thật, nói thật những điều mình nghĩ, hoặc chỉ lo vun vén cho cuộc sống cá nhân, trang bị đầy đủ cho cái bao của mình mà không cần biết đến những người xung quanh. Vì thế mà ý nghĩa thời sự của truyện ngắn Người trong bao cho đến nay vẫn còn nguyên vẹn.
Dàn ý Phân tích tác phẩm Người trong bao
I. Mở bài: Giới thiệu đoạn trích Người trong bao của Sê-khốp.
- Sê-khốp là một nhà văn kiệt xuất được sinh ra ở một thị trấn nhỏ. Ông là một trong những đại biểu kiệt xuất cuối cùng trong văn học hiện thực của nước Nga. Ông đã để lại cho nền văn học hơn 500 truyện ngắn truyện vừa và các vở kịch đặc sắc.
- Nổi bật là tác phẩm Người trong bao. Tác phẩm nói về hình tượng một người luôn sống trong một cái vỏ bọc, lo sợ cuộc sống, chúng ta cùng đi tìm hiểu tác phẩm để hiểu rõ về phong cách nghệ thuật của Sê-khốp.
II. Thân bài:
1. Chân dung Bê-li-cốp:
- Ngoại hình: thu mình trong vỏ bọc, luôn tạo một thứ bao bọc, bảo vệ mình.
- Lối sống thu mình trong bao.
- Biểu tượng cho sự hèn nhát, quái đản.
- Lối sống thu mình.
- Lối sống trong bao, thu mình, hèn nhát.
2. Ảnh hưởng của Bê-li-cốp:
- Lối sống đã đầu độc, làm ô nhiễm, khiến con người sợ hãi suốt 15 năm.
- Mọi người sợ sệt và xa lánh.
3. Cái chết của Bê-li-cốp:
- Bị đồng nghiệp trêu chọc, phản đối thô bạo.
- Chứng kiến đồng nghiệp không sợ cấp trên.
- Bị cười nhạo vì ngã.
- Sợ ông hiệu trưởng.
III. Kết bài:
- Nêu cảm nhận của em về đoạn trích Người trong bao của Sê-khốp.
- Đoạn trích Người trong bao của Sê-khốp nói lên sự lo lắng về cuộc sống đầy cạm bẫy khiến con người phải sống khép kín, nhưng điều ấy đã khiến con người trở nên hèn nhát.
Phân tích tác phẩm Người trong bao - mẫu 3
Sê-khốp được mệnh danh là con linh điểu của buổi tịch dương trên đồng cỏ dại nước Nga xưa, là văn hào chói sáng lên lâu đài nhân đạo. Chính tấm lòng của một nhà văn chân chính và những tác phẩm văn học giá trị phản ánh chân thực cảm động số phận người dân và đất nước Nga đã chinh phục được trái tim của độc giả trên khắp mọi nơi, trong số ấy, “Người trong bao” là một trong số những truyện ngắn đặc sắc làm nên tên tuổi của ông.
Người trong bao được sáng tác năm 1898, thời kì này xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế nặng nề của Sa Hoàng cuối thế kỉ 19. Môi trường xã hội ấy đã đẻ ra lắm kiểu người quái dị mà Bê-li-cốp nhân vật chính trong truyện là hình tượng điển hình cho số phận bi kịch của những người dân Nga lúc bấy giờ.
Nhan đề của truyện chính là hình ảnh của nhân vật bê-li-cốp, gây tò mò và hấp dẫn người đọc bởi kiểu người quái dị, vừa đáng thương, vừa tội nghiệp ấy. Đồng thời bày tỏ niềm cảm thương cho số phận của những người dân Nga lúc bấy giờ.
Nhân vật chính trong truyện là Bê-li-cốp, hắn là một giáo viên dạy tiếng Hy Lạp, sống rất kì lạ, luôn luôn sợ hãi mọi thứ xảy ra xung quanh mình. Hắn sợ những thử thách cuộc đời, sợ nắng mưa gió tuyết. sợ bị mất cắp và bị thất lạc nên luôn giấu tất cả đồ đạc của mình vào trong chiếc bao. Hắn mặc chiếc áo bành tô to che gần hết khuôn mặt, tai nhét bông điều ấy chứng tỏ hắn sợ phải nghe thấy âm thanh xung quanh, sợ bị nhìn thấy. Không chỉ thế hắn còn sợ giao tiếp, khi đến nhà ai chỉ ngồi 15 phút không nói gì rồi ra về chứng tỏ hắn sợ cô độc ấy vậy mà hắn lại sợ phải giao tiếp và không muốn chịu trách nhiệm với lời nói, và hành động của mình. Trong tình yêu hắn cũng muốn cầm tù tình yêu của mình, hắn sợ cái mới vì chỉ vì nhìn thấy Va-ren-ca đi xe đạp mà sợ hãi, giật mình và hoảng hốt đến tận nhà để nhắc nhở. Điều ấy chứng tỏ hắn sợ mọi thứ đến cả những điều không hề đáng sợ, hắn chỉ nô lệ vào cái cũ, không dám thay đổi, như thế hắn đã chết ngay cả khi đang sống, từng giờ, từng phút trong chiếc bao sợ hãi hắn đang tự tạo ra và bị bầu không khí ngột ngạt của xã hội Nga Hoàng đẩy vào. Để qua hình tượng điển hình ấy, Bê-li-cốp phản ánh chân thực đến bộ mặt xã hội Nga lúc bấy giờ, người dân phải sống trong nỗi sợ và sự cưỡng chế nặng nề đến ngạt thở, qua đó khát khao muốn thay đổi và hướng đến một thế giới tốt đẹp hơn, không bị cầm tù và giam hãm trong chiếc bao nào cả.
Ngôn ngữ của truyện chân thực, chính xác, giàu tính thời sự điểm trúng được những diễn biến tâm lí tinh vi và phức tạp của nhân vật. kết cấu truyện lồng trong truyện giúp câu chuyện trở nên phức tạp, hấp dẫn và lôi cuốn đầy kịch tính, đồng thời thấy được tài năng của tác giả. Khẳng định được tài năng bậc thầy của cây bút xuất sắc trên mảng truyện ngắn.
Qua sự sáng tạo và xây dựng những tình huống, chi tiết và hình tượng điển hình ở tác phẩm Người Trong bao, nhà văn Nga vĩ đại Sê-khốp đã gửi gắm đến chúng ta hình ảnh người dân Nga phải sống trong chế độ Nga Hoàng nặng nề trì trệ như thế nào; đồng thời bày tỏ niềm xót thương, đồng cảm và lời kêu gọi đổi thay của tác giả. Chính những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc ấy đã giúp tác phẩm sống mãi trong lòng độc giả.
Phân tích tác phẩm Người trong bao - mẫu 4
Văn học làm đẹp trái tim, tâm hồn con người, nó rung lên trong mỗi chúng ta những cảm xúc tế nhị hay mãnh liệt để con người vươn tới tự do, dân chủ, vươn tới thế giới của tình thương, của sự hoàn thiện, hoàn mỹ. Nhà văn thể hiện tất cả điều đó thông qua hình tượng, “làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự việc, những hiện tượng đáng làm ta suy nghĩ về tính cách số phận, về tình đời, tình người”. Tác phẩm có giá trị là tác phẩm luôn chứa đựng khoảng trắng nhằm kích thích sự tìm tòi khám phá của người đọc, chính hình tượng nghệ thuật là nơi ẩn chứa, tiềm tàng những khoảng trắng đó.
Ra đời cuối thế kỷ XIX (1898), “Người trong bao” của An-tôn Sê-khốp với hình tượng thầy giáo Bê-li-cốp đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc không chỉ trong lòng độc giả nước Nga mà còn độc giả thế giới. Hơn thế kỷ trôi qua, nhưng tác phẩm vẫn đứng vững trong lòng người đọc, tại Việt Nam nó được chọn để dạy học trong Ngữ văn 11, chương trình nâng cao. Có lẽ chính việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật Bê-li-cốp đã khẳng định chỗ đứng của “Người trong bao”, vì qua đó, những mạch ngầm văn bản cứ hiện dần trong lòng người đọc.
Hình tượng Bê-li-cốp hiện lên thông qua 2 lớp ngôi kể, ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba. Ngôi thứ ba được kể bằng hình tượng người kể chuyện là tác giả, ngôi thứ nhất “tôi” người kể chuyện là một nhân vật trong câu chuyện, thầy giáo Bu-rơ-kin kể với bác sĩ I-va-nứt về thầy giáo Bê-li-cốp trong một chuyến đi săn. Như vậy đã có sự lòng ghép ngôi kể trong ngôi kể, ngôi thứ nhất được lòng trong ngôi kể thứ ba, câu chuyện của thầy giáo Bu-rơ-kin kể với bác sĩ I-va-nứt về thầy giáo Bê-li-cốp được lồng trong câu chuyện mà tác giả kể với đọc giả về câu chuyện đó. Đưa cách kể mang tính chủ quan lòng vào ngôi kể mang tính khách quan là một sự lựa chọn khéo léo. Tác giả đang khách quan để kể về câu chuyện người khác kể lại, tác giả chỉ như một người ghi chép lại những gì mà thầy giáo Bu-rơ-kin kể, vì vậy, câu chuyện vừa tạo được tính thuyết phục trong người đọc lại vừa được kể lại như là sự chứng kiến của một người trong cuộc, nhìn nhận được mọi khía cạnh, mọi vấn đề.
Chính việc lựa chọn ngôi kể đó đã như một hệ quả tất yếu đến sự di động điểm nhìn của người kể chuyện, di động từ ngôi kể thứ ba sang ngôi kể thứ nhất, từ ngôi kể thứ nhất số ít sang ngôi kể thứ nhất số nhiều. Di động điểm nhìn kể chuyện như vậy làm cho nhân vật được nhìn nhận dưới nhiều góc độ, hình ảnh nhân vật được hiện lên một cách tự nhiên, sâu sắc, chân thật hơn. Điểm nhìn quy chiếu từ góc nhìn là người bạn đồng nghiệp, họ dạy cùng trường, ở cùng căn hộ, hai phòng ở đối diện nhau, nên họ biết rõ về nhau một cách rõ ràng, vì thế người đọc, người nghe yên tâm về những lời kể nhân vật tôi. Người kể chuyện có thể đưa ra những bình luận, nhận xét theo quan điểm riêng của mình. Về cuối truyện sau khi chôn cất Bê-li-cốp xong người kể chuyện quy chiếu điểm nhìn sang ngôi thứ nhất số nhiều “chúng tôi”, lúc này không phải câu chuyện được kể dưới điểm nhìn của một cá nhân mà cả tập thể, cộng đồng điều đó vừa thể hiện sự khách quan vừa thể hiện sự ảnh hưởng, tác động của Bê-li-cốp, kiểu người sống trong bao với xã hội, đồng thời thấy được dù Bê-li-cốp đã chết những kiểu người trong bao vẫn còn tồn tại.
Kéo theo những vấn đề đấy là giọng điệu, ở đây giọng điệu kể chậm rãi vừa giễu cợt, châm biếm, mỉa mai vừa u buồn… Qua hình tượng nhân vật người trong bao, Bê-li-cốp, tác giả phê phán sâu sắc lối sống hèn nhát, bạc nhược, bảo thủ và ích kỷ của một bộ phận trí thức Nga cuối thế kỷ XIX. Từ đó, nhà văn khẩn thiết thức tỉnh mọi người hãy thay đổi cách sống, lối sống kiểu “trong bao” nếu muốn có cuộc sống ý nghĩa.
Ngay nhan đề tác phẩm cũng là một tính hiệu thẩm mỹ. Xét về nghĩa đen bao là vật dùng để đựng đồ, bọc đồ, có tác dụng che đậy, bảo vệ, gói ghém… Nghĩa bóng là lối sống và tính cách của Bê-li-cốp luôn thu minh trong bao, một môi trường xã hội thối nát, cũ kỹ đã bao bọc làm thay đổi bản chất con người. Như vậy có một vấn đề đặt ra là nhân vật Bê-li-cốp, người trong bao, chủ thể bị “bỏ” vào “bao” hay tự mình “chui” vào “bao”, nghĩa là tự anh ta tạo cho mình một cuộc sống lập dị kiểu trong bao hay do hoàn cảnh, đẩy anh ta “vào trong bao”?
Bê-li-cốp hiện lên với chân dung biếm hoạ, có cái vẻ bề ngoài không giống ai: gương mặt nhợt nhạt, nhỏ bé, choắt như mặt chồn; quanh năm anh ta đi giày cao su, mặc áo bành tô, đeo kính râm, đội mũ, hai lỗ tai nhét bông, tay cầm dù,… Các vật dụng của anh ta đều được để trong bao.
Không những ngoại hình anh ta luôn được giấu trong bao mà mọi cái liên quan đến anh ta đều gói trong bao. Trong tác phẩm anh ta đã nói 5 lần câu “Nhỡ lại xảy ra chuyện gì thì sao”; khi nằm ngủ anh ta kéo chăn trùm kín mít; đến thăm đồng nghiệp thì chỉ ngồi im; cả ý nghĩ của mình Bê-li-cốp cũng giấu trong bao vì vậy cuộc sống của anh ta là một cuộc sống lập dị, nhút nhát, sợ đối diện với hiện tại, chỉ thích sống theo những thông tư, chỉ thị, giáo điều, rập khuôn, chỉ tôn sùng quá khứ, luôn thỏa mãn, hạnh phúc, hài lòng, mãn nguyện với cuộc sống của mình... Chi tiết cái bao được tác giả nhắc đi nhắc lại 12 lần như những điệp khúc nhấn mạnh chân dung Bê-li-cốp luôn cố thu mình trong bao từ ngoại hình, tính cách, lời nói, hành động, suy nghĩ…
Như vậy, nhân vật Bê-li-cốp là một hình tượng điển hình. Bê-ê-lin-xki cho rằng “Tính điển hình là một trong những dấu hiệu của tính mới mẻ trong sáng tạo, hay nói đúng hơn là bản thân sức sáng tạo. Nếu có thể thì cũng nói rằng tính điển hình là huy chương của nhà văn. Điển hình là người lạ đã quen biết”. Bê-li-cốp là một sáng tạo lớn của An-tôn Sê-khốp, hình tượng nhân vật này vừa hiện lên rõ nét là một nhân vật độc đáo, riêng biệt không lẫn với ai vừa là nhân vật đặc trưng, khái quát cho một kiểu người có lối sống “trong bao”, gấp sách lại người đọc vẫn thấy hiện lên một hình ảnh Bê-li-cốp bằng da, bằng thịt, có những tính cách, suy nghĩ, hành động lời nói kiểu “trong bao” và cũng thấy đâu đây hình ảnh nhân vật này trong cộng đồng người, đâu đó trong xã hội Nga đương thời và cả trong xã hội hiện đại ngày nay.
Bê-li-cốp, vừa là sản phẩm của chính cá nhân anh ta vừa là sản phẩm của xã hội. Ngoài những tính cách cá nhân như đã nói ở trên, Bê-li-cốp còn là con đẻ của xã hội Nga lúc bấy giờ. Chúng ta biết rằng cuối thế kỷ XIX xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề. Chính môi trường ấy đã đẻ ra lắm thứ sản phẩm người kỳ quái.
Kết cục nhân vật Bê-li-cốp chết, nguyên nhân trực tiếp cũng do những suy nghĩ kiểu “trong bao”. Bê-li-cốp chết là kết thúc cuộc đời một cá nhân, quan tài đựng thi thể y chính là cái “bao” kín đáo nhất. Cái chết của Bê-li-cốp là hậu quả tất yếu của cách sống, kiểu sống đó. Chết là kết thúc cuộc đời, là sự chôn vùi một con người những liệu có chôn vùi được kiểu người “trong bao” không. Khi còn sống Bê-li-cốp đã làm cho mọi người sợ hãi, kể cả đồng nghiệp, thẩm chí là lãnh đạo của anh ta vì thế ai cũng ghét bỏ, nghĩa là anh ta là người mâu thuẫn với tất cả mọi người, là tượng trưng cho xấu xa, nên khi anh ta chết mọi người từ nghĩa địa trở về lòng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Những xét cho cùng lối sống của anh ta có ảnh hưởng không nhỏ tới cộng đồng, kiểu sống trong bao, kiểu sợ hãi, nhút nhát, rập khuôn đó đã lan ra cả cộng đồng vì vậy mọi người đều sợ anh ta, mỗi lần Bê-li-cốp dọa báo thanh tra, cấp trên… thì mọi người đều run sợ, nhân vật tôi từng tâm sự “Bọn giáo viên chúng tôi đều sợ hắn. Thậm chí cả hiệu trưởng cũng sợ hắn… cái thằng cha quanh năm đi giày cao su và mang ô ấy đã khống chế cả trường học chúng tôi suốt mười lăm năm trời… Mà đâu phải chỉ có trường học! Cả thành phố nữa ấy!”. Chứng tỏ rằng Bê-li-cốp có ảnh hưởng, lây lan tới cộng đồng, tác động ngược trở lại đối với cộng động. Như vậy lối sống trong bao không chỉ có ở Bê-li-cốp mà có trong mọi người ở thành phố ấy, một con người với cách sống như vậy mà đã từng khống chế được cả một ngôi trường thậm chí cả thành phố trong hơn mười lăm năm thì cộng đồng đó, thanh phố đó hơn gì cách sống của Bê-li-cốp?
Cái bao còn mang hàm nghĩa về một kiếp người, một lối sống, một xã hội đen tối, tù túng, nặng nề mà không sao thoát được. “Người trong bao”, một hình tượng có tính ẩn dụ vô cùng độc đáo để phản ánh bộ phận trí thức bạc nhược, ươn hèn và qua đó lên án, đả kích chính cái đã sản sinh ra bộ phận trí thức bạc nhược, ươn hèn ấy: chế độ xã hội Nga hoàng cuối thế kỉ XIX.
Phân tích tác phẩm Người trong bao - mẫu 5
Sê-khốp (1860-1904) là một trong những cây đại thụ của rừng văn học Nga, đã để lại nhiều kịch bản và hơn năm trăm truyện ngắn. Tác phẩm của Sê-khốp làm hiện lên toàn cảnh xã hội nước Nga cuối thế kỉ XIX ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề dưới thời Sa hoàng.
Truyện ngắn "Người trong bao" được Sê-khốp viết vào năm 1898. Qua nhân vật Bê-li-cốp, tác giả châm biếm và đả kích người trí thức Nga sống tầm thường, hủ lậu, hèn nhát và giáo điều, đê tiện và dung tục; đồng thời chỉ ra lối sống ấy đã để lại nhiều di hại đầu độc tâm hồn người, đầu độc cuộc sống, gây ảnh hưởng và hậu quả nặng nề, dai dẳng trong xã hội nước Nga. Cái bao mang hàm nghĩa về một kiếp người, một lối sống, một xã hội đen tối, tù túng, nặng nề mà không sao thoát ra được, chết rồi cũng không thoát ra được!
Cuộc đời của anh giáo chức tỉnh lẻ Bê-li-cốp là những trang hài, là một bức tranh biếm hoạ cười ra nước mắt. Chả thế mà cô giáo Va-ren-ca đã "cười phá lên" khi Bê-li-cốp bị xô ngã "lộn nhào" xuống chân cầu thang, và cô đã "oà lên khóc" khi hắn đã nằm trong bao đi chầu âm phủ!
Bê-li-cốp, giáo viên trung học dạy tiếng Hy Lạp cổ. Hắn quen sống trong tù túng, nô lệ. Với hắn thì "nếu không có chỉ thị nào cho phép thì ta không được làm. Hắn sống vì quá khứ, như một kẻ mang bệnh tâm thần, lúc nào cũng sống trong tâm trạng "sợ hãi", "lo âu", "nhút nhát" . Hắn chỉ có một chút niềm vui do bệnh nghề nghiệp sinh ra. Hắn nói "ngọt ngào”: "Ôi, tiếng Hy Lạp nghe thật tuyệt vời êm tai", rồi "nheo mắt lại", "giơ một ngón tay lên" và thốt ra tiếng: "Anthropos”. Phải chăng lúc đó gã Bê-li-cốp hạnh phúc nhất. Chắc lúc ấy hắn đã thò đầu ra khỏi cái bao trong khoảnh khắc!
Bê-li-cốp sống một cách kỳ quặc, vừa lập dị vừa lẩm cẩm. Con người hắn cuộc đời hắn, từ cử chỉ, hành động đến ngôn ngữ sinh hoạt. Hắn như đã bị cầm tù, đã bị nhốt vào bao. Quanh năm suốt tháng, nắng mưa, ngay cả mùa hạ hắn vẫn khoác áo bành tô ấm cốt bông! Lúc nào chân cũng đi giày cao su. Chiếc ô, đồng hồ quả quýt, con dao nhỏ để gọt bút chì... tất cả đều đút trong bao. Ngồi xe ngựa, hắn bắt phải hạ mui xe. Bộ mặt hắn cũng được giấu kín trong bao, đó là cái cổ áo bành tô cổ bẻ. Lỗ tai hắn cũng nhét bông. Mọi ý nghĩ, hắn "cũng giấu vào bao". Với hắn thì cái bao là một thứ vỏ bọc để "ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài". Nhưng thật hài hước, đầu óc hắn cũng chỉ là một cái bao cổ hủ để bọc lấy những chỉ thị, thông tư, những bài báo quy định cấm đoán điều này điều nọ mà hắn cho là "rõ ràng". Hắn vừa hèn vừa đáng thương! Hắn thật tội nghiệp!
Qua các chi tiết nói về cái bao, Sê-khốp châm biếm một loại "linh hồn chết" trong xã hội Nga cuối thế kỉ XIX, đó là loại trí thức sống lạc hậu, cổ hủ, nô lệ, mù quáng, sống cuộc đời chật hẹp, quẩn quanh tù túng.
Cách sống của Bê-li-cốp cũng rất kì lạ. Hắn có một thói quen "kì quặc". Hắn thường đến các nhà giáo viên, như hắn nói đến để "duy trì những mối quan hệ tốt với bạn bè". Nhưng hắn đến mà "chẳng nói chẳng rằng", cứ “ngồi im như phỗng", mắt thì nhìn quanh "như tìm kiếm vật gì", độ một giờ sau thì cáo từ. Tính hắn hâm hay hắn là một mật vụ lân la dò xét? Vì thế, giáo viên nào trong trường cũng sợ hắn. Cả hiệu trưởng, oai quyền thế cũng sợ hắn. Cả thành phố đều sợ hắn. Các bà, các cô không dám diễn kịch vào tối thứ bảy vì sợ rằng "nhỡ hắn biết thì lại phiền". Giới tu hành không dám ăn thịt và đánh bài khi có mặt hắn. Bê-li-cốp như một bóng ma, một hung thần gieo rắc sợ hãi, làm cho dân chúng trong thành phố suốt một thời gian dài mười lăm năm trời “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, sợ giúp đỡ người nghèo, sợ dạy học chữ...".
Sê-khốp đã chỉ ra và cho thấy loại người trong bao, lối sống trong bao thật vô cùng đáng sợ. Loại người ấy, lối sống ấy đã tỏa chiết tâm hồn người, bao phủ lên khắp mọi nơi một bóng đen đáng sợ.
Vì quanh năm suốt tháng tự nhốt mình trong bao nên Bê-li-cốp sống như một người bệnh tưởng, trầm cảm. Hắn sợ ánh sáng, sợ bóng tối, sợ trộm vào nhà, sợ lão nấu bếp cắt cổ hắn. Nhà lúc nào cũng đóng chặt cửa, cài then, chăn trùm đầu kín mít lúc ngủ, ở nhà mùa hè cũng như mùa đông, lúc nào hắn cũng mặc áo khoác ngoài. Suốt đêm, "hắn toàn mơ những điều khủng khiếp" vì thế buổi sáng đến trường, mặt hắn "tái nhợt, rầu rĩ" một cách thảm hại! Lối sống đó là sống khổ, sống mà như chết. Bê-li-cốp đã tự cầm tù mình, đày đọa mình, gây đau khổ cho thân mình. Hắn thật đáng thương hại.
Hóm hỉnh và ý vị biết bao khi Sê-khốp nói về bi kịch ái tình của người trong bao. Cô giáo Va-ren-ca khoảng ba mươi tuổi mới về trường, thế là nữ thần ái tình đến gõ trái tim Bê-li-cốp. Trên bàn trong ngôi nhà "chật như cái hộp", hắn trân trọng đặt tấm ảnh người đẹp. Ý định lấy vợ choáng ngợp tâm hồn hắn, nhưng vì quen sống trong bao nên hắn cứ lần lữa đắn đo, suy tính, lúc nào mặt mày cũng nhợt nhạt đáng thương. Hắn bị gán ghép, rồi hắn có vẻ thích Va-ren- ca... Thế là bức tranh biếm hoạ "Anthropos si tình" (kẻ si tình) được gửi đến tất cả các giáo viên ở hai trường nam nữ, giáo viên chủng viện, các viên chức và cả Bê-li-cốp nữa. Bức biếm hoạ mới gợi tình làm sao: hình ảnh "Bê-li-cốp đang đi, chân xỏ trong giày mưa, quần túm ống, tay cầm ô, tay khoác tay Va-ren-ca". Chà! Người trong bao lãng mạn và đa tình quá! Nhưng Bê-li-cốp lại bị sốc, bị bức tranh châm biếm gây cho hắn "một ấn tượng nặng nề".
Sê-khốp đã tạo nên những chi tiết điển hình, những tình huống điển hình để khắc họa tính cách của Bê-li-cốp người trong bao. Dư vị chua cay, hài hước của câu chuyện càng trở nên hấp dẫn, lôi cuốn.
Bê-li-cốp chẳng gặp "hên" một chút nào! Ngày chủ nhật, mùng một tháng năm hôm ấy, thầy trò cả trường trung học tổ chức cùng đi ra ngoài thành phố vào rừng chơi. Nhưng anh chàng Bê-li-cốp đã bỏ về giữa chừng. Giữa đường hắn bất ngờ thấy hai chị em Va-ren-ca cưỡi xe đạp phóng qua. Cô chị "mặt mày ửng đỏ... vui vẻ, hớn hở" gào to: "Trời hôm nay đẹp thật, đẹp tuyệt, đẹp ghê gớm!". Bê-li-cốp "ngẩn người ra", như bị choáng, bị ma ám: "Mặt mày đang từ xanh mét chuyển sang trắng bệch". Người trong bao phàn nàn, trách cứ: "Chẳng lẽ giáo viên và đàn bà, con gái lại có thể cưỡi xe đẹp, làm như thế coi sao tiện?".
Phải chăng hắn là một kẻ cổ hủ đáng cười? Phải chăng hắn là một nhà mô phạm đang bảo vệ nên đạo đức chính thống?
Suối ngày hôm sau, người trong bao đau khổ dằn vặt, bực dọc, toàn thân run lên", thậm chí hắn bỏ cả buổi lên lớp, bỏ cả cơm trưa. Tối hôm đó, dù đang tiết mùa hạ, nhà đạo đức bèn "mặc áo ấm" lần mò đến nhà hai chị em Va-ren- ca. Cô chị đi vắng, hắn chỉ gặp được người em. Hắn thật thà thanh minh về bức tranh châm biếm. Hắn khẳng định nhân cách "tử tế, đứng đắn" của mình. Lấy tư cách là "bạn đồng nghiệp đi trước", hắn nhắc nhở kẻ "mới bắt đầu đi làm" đôi điều. Hắn chê trách việc đi xe đạp của hai chị em Va-ren-ca "hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên". Hắn cảnh cáo việc đi xe đạp ấy là thiếu gương mẫu, là trái pháp luật, trái nội quy vì "chưa có chỉ thị nào cho phép thì không được làm". Hắn bày tỏ thái độ nào là "phát kinh lên", nào là mắt hoa lên" khi nhìn thấy cảnh đàn bà, con gái đi xe đạp! Hắn khuyên nhủ Cô- va-len-cô phải xử sự "thận trọng", không được buông thả quá chừng như mặc áo thêu ra đường, trong tay còn cầm sách này nọ, lại còn cưỡi xe đạp nữa. Hắn nhắc nhở nếu chuyện ấy đến tai ông hiệu trưởng, ông thanh tra thì "còn ra cái thể thống gì”.
Khi bị Cô-va-len-cô cự lại, hắn răn dạy: "Anh cần phải có thái độ kính trọng đối với chính quyền". Hắn doạ "sẽ báo cáo với ngài hiệu trưởng nội dung câu chuyện" đã xảy ra mà hắn đã nói với Cô-va-len-cô.
Cuộc đôi co diễn ra, Cô-va-len-cô “thô bạo" chỉ vào mặt Bê-li-cốp và bảo hắn là "tên mách lẻo”, rồi túm lấy cổ áo hắn, tống cổ ra khỏi nhà. Người trong bao "lộn nhào xuống chân cầu thang”. Sự việc diễn ra đầy kịch tính. Khi Bê-li-cốp "sờ lên mũi xem cặp kính có còn nguyên vẹn không", thì hai người đàn bà và Va-ren-ca bỗng từ đâu xuất hiện, nhìn thấy. Bê-li-cốp đau khổ cảm thấy thà "tự vặt cổ” còn hơn là biến thành trò cười cho thiên hạ. Hắn vô cùng lo sợ câu chuyện sẽ đến tai ngài hiệu trưởng, ngài thanh tra. Người ta sẽ vẽ tranh châm biếm hắn, sẽ ép hắn về hưu...
Có bao chi tiết bi hài. Nhất là khi Va-ren-ca "cười phá lên vang khắp khu nhà". Tiếng cười "ha-ha-ha!" lảnh lót, âm vang ấy "đã chấm dứt tất cả”: "chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt cả cuộc đời của Bê-li-cốp". Cái ngã của Bê-li-cốp xuống chân cầu thang, điệu cười "lảnh lót" của Va-ren-ca có giá trị và ý nghĩa phê phán một cách chua cay lối sống giáo điều, dung tục của hạng người trong bao. Kẻ hủ lậu lên mặt đạo đức giả, dạy đời bằng bài học luân lý cổ lỗ đã bị Sê-khốp châm biếm qua một tình huống bi hài.
Chỉ một tháng sau bị xô ngã, Bê-li-cốp chết. Trước khi đi chầu Diêm Vương, hắn không quên cất tấm ảnh Va-ren-ca để trên bàn đi. Hắn nằm trong quan tài với vẻ mặt "hiền lành, dễ chịu, tươi tỉnh". Phải chăng hắn "mừng" vì được "chui vào cái bao" vĩnh viễn. Đám ma hắn được cử hành trong một buổi , trời mưa dầm âm u". Lúc hạ huyệt, Va-ren-ca "bỗng oà lên khóc". Nàng khóc vì thương tiếc một thiên tình sử chăng? Nàng khóc vì thương hại một con người bảo thủ, cổ hủ từng làm trò cười cho thiên hạ chăng?
Sau khi Bê-li-cốp chết, lúc đầu ai cũng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Nhưng rồi chưa đầy một tuần sau, ai cũng cảm thấy "nặng nề, mệt nhọc, vô vị" vì cuộc sống đã lại diễn ra như cũ, "chẳng tốt đẹp gì hơn trước". Một Bê-li-cốp chết, một người trong bao đã về chầu âm phủ nhưng còn lại bao nhiêu người trong bao, và "trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa!". Sê-khốp đã chỉ rõ: lối sống tầm thường, hủ lậu, giáo điều, dung tục đã đầu độc con người, đầu độc cuộc sống, sẽ gây bao hậu quả nặng nề, sẽ tồn tại dai dẳng trong xã hội Nga những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.