Phân tích các biện pháp tu từ ẩn dụ trong Truyện Kiều năm 2023
Phân tích các biện pháp tu từ ẩn dụ trong Truyện Kiều năm 2023
Bài văn Phân tích các biện pháp tu từ ẩn dụ trong Truyện Kiều gồm dàn ý chi tiết, 2 bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 9.
Đề bài: Phân tích các biện pháp tu từ ẩn dụ trong Truyện Kiều.
Bài văn mẫu 1
"Truyện Kiều" của thi hào dân tộc Nguyễn Du là kiệt tác trong nền văn học cổ Việt Nam. Tuy mượn đề tài, cốt truyện từ "Kim-Vân-Kiều Truyện" của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc) nhưng áng thơ dài 3254 câu thơ lục bát này đậm đà bản sắc đân tộc, chứa chan một tình nhân ái bao la "rung động đất trời" (Tố Hữu).
Về phương diện nghệ thuật, truyện thơ này là mẫu mực và đỉnh cao về ngôn ngữ thi ca và xây dựng nhân vật. Đọc "Truyện Kiều", ta cảm nhận một cách sâu sắc. "Nguyễn Du có biệt tài vận dụng các biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt là ẩn dụ mà giáo sư Đặng Thanh Lê đã nhận xét.
Khi tả cảnh cũng như lúc tả người, tả tình, với cá tính sáng tạo của một thiên tài, Nguyễn Du đã vận dụng nhiều biện pháp tu từ của văn học dân tộc, đặc biệt tả ẩn dụ làm cho câu thơ, đoạn thơ đầy hình tượng và biểu cảm.
Nguyễn Du có biệt tài về vận dụng biện pháp tu từ của văn học dân tộc
Mùa xuân về tưng bừng trong ngày hội "Đạp Thanh" của tuổi trẻ. Ba chị em Kiều cũng "sắm sửa bộ hành chơi xuân". Khắp các ngả đường, dòng người trây hội kéo dài vô tận:
" Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm."
Đằng biện pháp tu từ hoán dụ (ngựa xe, áo quần), so sánh ( ... như nước ... như nêm) và đối (2 vế câu 8 đối nhau) nhà thơ đã tái hiện cảnh trẩy hội mùa xuân tấp nập, đông vui, rộn ràng của giai nhân, tài tử.
Đây là hai câu tỏ tình của chàng Kim:
" Tiện đây xin một hai điều,
Đài sen soi đến dấu bèo cho chăng?"
"Dấu bèo" (ẩn dụ) chỉ kẻ tầm thường, thấp hèn. Kim Trọng khiêm tốn, nhún mình. "Đài sen" (ẩn dụ) chỉ con người cao quý, được trân trọng. "Đài sen soi đến ..." (nhân hóa): lời tỏ tình tế nhị. Chàng Kim hào hoa, đa tình biểu lộ một tâm tình say đắm người đẹp, bày tỏ một tấm lòng khao khát yêu đương. Cách tỏ tình vừa hoa mỹ vừa truyền cảm.
"Trước lầu Ngưng Bích" là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong "Truyện Kiều. Tác giả vận dụng tài tình các biên pháp tu từ như điệp ngữ, ẩn dụ, hoán dụ, ... để viết nên những vần thơ tuyệt diệu. Điệp ngữ "Buồn trông" đứng ở đầu câu sáu, láy lại bốn lần liên tiếp, khơi gợi nỗi sầu thương nặng trĩu, triển miên, day dứt trong lòng Kiều. Cửa bể chiều hôm hoang vắng, xa lạ, mịt mờ với con thuyển và cánh buồm, ngọn nước mới sa và hoa trôi man mác, nội cỏ dầu dầu và chân mây, mặt đất, ... gió cuốn và ầm ầm tiếng sóng – là những hình ảnh ẩn dụ và hoán dụ đặc tả một kiếp người lưu lạc đang lênh đênh, trôi dạt trên dòng đời vô định đầy bão tố, với tâm trạng sợ hãi, cô đơn và tuyệt vọng. Ngoại cảnh hòa hợp với tâm cảnh:
" Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
Nguyễn Du có biệt tài ... đặc biệt là ẩn dụ
Ẩn dụ là lối ví ngầm. Xưa nay, đoạn thơ tả tài sắc hai chị em Kiều vẫn được nhiều người tán thưởng. Bức chân dung "hai ả tố nga" vô cùng xinh đẹp, một vẻ đẹp thanh tân, tuyệt mĩ:
" Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười."
Thúy Kiều và Thúy Vân cốt cách, yểu điệu như "mai", tinh thần trắng trong như "tuyết"; từ dáng vẻ, dung nhan đến tâm hồn đều kiều diễm "mười phân vẹn mười". Hai hình ảnh ẩn dụ "Mai cốt cách, tuyết tinh thần" là những nét vẽ tài hoa, có giá trị thẩm mỹ tinh tế.
Bốn câu thơ tiếp theo tả sắc đẹp Thúy Vân. Gương mặt đầy đặn xinh tươi như vầng trăng rằm, lông mày thanh tú xinh xắn như "mày ngài", miệng cười tươi như "hoa", tiếng nói trong như "ngọc", tóc mềm bóng đẹp hơn "mây", da trắng mịn hơn "tuyết". Trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết, ... tiêu biểu cho vẻ đẹp của thiên nhiên được ví với gương mặt, nụ cười, giọng nói, mái tóc, màu da ... của giai nhân. Cách miêu tả ấy tuy mang tính chất ước lệ, nhưng ngòi bút "thần" của Tố Như đã viết nên những của thơ có hình ảnh ẩn dụ hấp dẫn lạ thường:
" Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang.
Mây thua nước tốc, tuyết nhường màu da."
Nếu Vân là một giai nhân thì Kiều là một giai nhân tuyệt thế, mặn mà, sắc sảo tài sắc vẹn toàn. Nguyễn Du đã sử dụng biện pháp ẩn dụ – nhân hóa gợi tả vẻ đẹp mộng mơ của Thúy Kiều. Mắt nàng trong như nước mùa thu. Lông mày xinh xắn như dáng núi mùa xuân ... Sắc đẹp ấy làm cho hoa phải "ghen", liễu phải "hờn":
" Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"
Những câu thơ, những hình ảnh ẩn dụ – nhân hốa ấy là bông hoa nghệ thuật tươi thắm mãi với thời gian tỏa hương vào hồn người. Nó còn thể hiện tấm lòng ưu ái của nhà thơ đối với cái đẹp trong nhân gian.
Nguyễn Du không những đã tiếp thu thi liệu, điển tích của văn học Trung Hoa mà còn học tập dân ca, ca dao, học lời ăn tiếng nói của người trồng dâu, trồng gai nơi đồng nội để sáng tạo nên vần thơ đặc sắc.
"Hạt mưa" là hình ảnh so sánh ẩn dụ trong ca dao, dân ca nói về thân phận, số phận của người con gái ngày xưa: "Thân em như hạt mưa sa, Hạt rơi đài các, hạt ra ruộng cày" ... Trước cảnh gia biến, nàng Kiều nghĩ và hành động:
" Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân."
"Hạt mưa, tấc cỏ, ba xuân" là những hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trung, nói ít mà gợi nhiều, hàm súc, hình tượng và truyền cảm. Kiều là một thiếu nữ giàu đức hi sinh, hiếu thảo, quyết bán mình chuộc cha khỏi vòng tù tội.
Nghệ thuật của Truyện Kiêu" là đa dạng, phong phú, đặc sắc độc đáo. Những câu Kiều vừa trích dẫn ở trên đã khẳng định nhận xét"của giáo sư Đặng Thanh Lê là đúng đắn.
Ứớc lệ và tượng trưng là đặc điểm của thi pháp cổ. Lúc tả cảnh, tả người, tả tình ... Nguyễn Du cũng sừ dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng nhưng với cá tính sáng tạo của một nghệ sĩ thiên tài, câu thơ Kiều đầy nhạc điệu, hình ảnh "Lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu", rất sống động và tinh tế. Đặc biệt là những câu Kiều mang hình ảnh ẩn dụ đã in sâu vào tâm trí mỗi chúng ta: "Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày ..." (Tố Hữu)
"Truyện Kiều" đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam. Tên tuổi thi hào dân tộc Nguyễn Du sống mãi trong tâm hồn của nhân dân ta với bao tình cảm kính phục, tự hào.
Bài văn mẫu 2
Nguyễn Du là người nghệ sĩ bậc thầy, ông không chỉ tài năng trong cách vận dụng thể thơ lục bát thuần dân tộc để sáng tác nên Truyện Kiều bất hủ. Mà để tạo nên thành công cho tác phẩm, ta không thể không nhắc đến tài năng vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm của mình, đặc biệt là nghệ thuật ẩn dụ. Trong khuôn khổ của một bài khảo cứu ngắn, chúng tôi chỉ khảo sát nghệ thuật ẩn dụ trên hai phương diện là: nghệ thuật ẩn dụ trong tả người và nghệ thuật ẩn dụ trong tả cảnh.
Trước hết về nghệ thuật ẩn dụ trong tả người của Nguyễn Du cũng đã đạt đến độ điêu luyện, xuất thần. Bằng những phác họa hết sức ít ỏi nhưng họ đã làm bật lên vẻ đẹp chân dung tinh thần của hai nàng Kiều: “Mai cốt cách tuyết tinh thần/ Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” . Và để từ đó lần lượt hiện lên chân dung hai nàng:
Vân xem trang trọng khác vời
…
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Tác giả đã vẽ nên bức chân dung Thuý Vân bằng nghệ thuật so sánh ẩn dụ và ngôn ngữ thơ chọn lọc, chau chuốt: khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, tươi sáng như mặt trăng; lông mày sắc nét như con ngài; miệng cười tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo; mái tóc đen óng ả hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn. Còn với nàng Thúy Kiều, không đi vào chi tiết, mà chỉ vào tập chung vào đôi mắt đầy xúc cảm của nàng:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hơn kém xanh”.
Đây là nghệ thuật điểm nhãn đặc trưng của văn học trung đại. Tác giả không đi vào miểu tả kĩ đối tượng, giống như Thúy Vân, chi tiết từng bộ phận trên mặt, mà chỉ lấy một vài điểm ấn tượng nhất, có hồn nhất để làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật. Với nàng Kiều chính là đôi mắt và đôi mày. Mắt nàng nhưng làn nước mùa thu trong vắt gợi đôi mắt long lanh, thông minh mà đa tình, đa cảm, ẩn dưới nét lông mày như nét vẽ của Kiều. Còn đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân, tươi trẻ đầy sức sống. Hệ thống hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để miêu tả vẻ đẹp của Kiều: “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa”, “liễu”. Nếu như thiên nhiên được dùng để miêu tả Vân là một thế giới thiên nhiên viên mãn, tròn đầy, ổn định thì Thúy Kiều lại gắn với một thiên nhiên sống động, biến hóa. Hơn nữa, trước vẻ đẹp của Thúy Kiều, thiên nhiên phải “hờn”, “ghen”, do vậy cũng báo trước một số phận đầy sóng gió. Như vậy kết hợp với bút pháp gợi tả cùng với nghệ thuật ẩn dụ tài tình, Nguyễn Du đã tạc lên trước mắt chúng ta hai mĩ nhân tuyệt đẹp, đặc biệt là vẻ đẹp của nàng Kiều. Thúy Kiều đẹp vượt ngoài quy chuẩn của thiên nhiên, đó chính là nhan sắc của tuyệt thế giải nhân, chim sa cá lặn, nhưng đồng thời sau bức chân dung đó lại dự báo một số phận đầy sóng gió, truân chuyên.
Không chỉ thành thục trong việc vận dụng nghệ thuật ẩn dụ trong tả người, mà Nguyễn Du còn tỏ ra hết sức tài năng, khéo léo khi vận dụng nghệ thuật ẩn dụ trong miêu tả khung cảnh thiên nhiên. Đó là khung cảnh lễ hội mùa xuân náo nức, vui tưới, nam thanh nữ tú đua nhau đi hội:
Gần xa nô nức yên anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Nguyễn Du đã mượn hình ảnh chim yến chim oanh để miêu tả cảnh nam thanh nữ tú, từng đoàn người nô nức đi chơi xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Và ấn tượng nhất là nghệ thuật ẩn dụ trong tám câu thơ cuối của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, đến đây nghệ thuật ẩn dụ đã đạt đến độ tài tình.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu tạo nên âm điệu trầm buồn, mở ra bốn cảnh, mỗi cảnh lại là một tâm trạng khác nhau của Kiều. Nỗi buồn đó ngày càng mãnh liệt, chồng chất triền miên qua nghệ thuật tăng cấp. Kết hợp với điệp từ là những hình ảnh so sánh ẩn dụ đặc sắc, giàu giá trị biểu đạt. Con thuyền lẻ loi đơn độc kia chẳng phải đó cũng chính là ẩn dụ cho cuộc đời lênh đênh, chìm nổi của nàng Kiều đó sao. Không chỉ vậy hình ảnh con thuyền còn biểu tượng cho khát khao đoàn tụ, sum họp gia đình của nàng. Hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi man mác” là biểu tượng cho thân phận chìm nổi, bé bỏng, mong manh của Kiều. Kiều cũng như cánh hoa kia, lênh đênh theo dòng đời, không biết rồi số phận của mình sẽ ra sao, không biết sẽ trôi dạt về đâu. Câu hỏi tu từ “biết là về đâu” vang lên như một tiếng than ai oán càng nhấn mạnh sự vô định không có quyền tự quyết số phận cuộc đời mình. Từ đó càng làm tăng thêm sự buồn tủi về thân phận bèo bọt, phụ thuộc. Và khung cảnh thiên nhiên càng trở nên dữ dội hơn nữa, màu xanh nhạt nhòa, héo úa, những cơn sóng điện cuồng ập đến bủa vây lấy người con gái nhỏ bé, đáng thương, tội nghiệp. Lời độc thoại “buồn trông” lặp đi lặp lại cùng với các hình ảnh ẩn dụ đặc sắc càng khắc sâu nỗi buồn da diết, dai dẳng, triền miên của Thúy Kiều.
Với ngôn ngữ cô đọng, hàm súc kết hợp với các biện pháp nghệ thuật đặc biệt là nghệ thuật ẩn dụ, Nguyễn Du đã làm cho tác phẩm của mình giàu sức sống, hàm ẩn nhiều ý nghĩa để bạn đọc các thế hệ cùng khám phá. Nghệ thuật ẩn dụ trong tác phẩm Truyện Kiều đã đạt đến độ bậc thầy, truyền tải giá trị tư tưởng nhân văn của thi hào Tố Như.