SBT Ngữ văn 11 Kết nối tri thức Bài tập 6 trang 6
Haylamdo biên soạn và sưu tầm với giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 11 Bài tập 6 trang 6 sách Kết nối tri thức hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 11.
Giải SBT Ngữ văn 11 Kết nối tri thức Bài tập 6 trang 6
Bài tập 6 trang 6 SBT Ngữ văn 11 Tập 2: Đọc lại bốn câu thơ sau (phiên âm và bản dịch) văn bản Độc Tiểu Thanh kí trong SGK Ngữ văn 11, tập hai (tr. 17 – 19) và trả lời các câu hỏi:
Trả lời:
- “Cổ kim” là từ ghép đẳng lập.
+ Cổ: xưa, cũ (như: cổ đại)
+ kim: nay, hiện thời (đương kim).
→ Cổ kim: xưa (và) nay; trong văn bản từ “cổ kim” có ý nghĩa bao quát một khung thời gian không xác định, từ xưa tới nay và mãi về sau.
- Từ “cổ kim” gắn với sự khẳng định có tính dự cảm về nỗi đau, về mối hận không thể tỏ tường, khó lí giải được vì sao những kẻ hồng nhau tài tử lại phải chịu nỗi oan khiên. Từ cảm quan thời đại Nguyễn Du, từ ngữ và ý thơ cho thấy triết lí, suy ngẫm sâu sắc của tác giả về bi kịch muốn đời của “tài” và “sắc” “tài mệnh tương đố” “tài tử đa cùng”, “hồng nhan đa truân”, “hồng nhan bạc mệ “Có tài mà cậy chi tài”, “Chữ tài liền với chữ tai một vần, “Tài tình chi làm cho trời đất ghen”, “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen,….
Trả lời:
- Tiểu đối “phong vận kì oan” (nỗi oan khiên kì lạ của người phong vận – về trước) đối với “ngã tự cư” (ta tự mình mang chịu – vế sau).
- Từ “phong vận” vốn có nhiều nét nghĩa, nhưng trong ngữ cảnh này thiên về nghĩa chỉ người phụ nữ, người con gái nết na, phong nhã. Nét nghĩa này tạo thành thể đối về ý với “ngã” (tôi, ta) - Tố Như, là một đấng mày râu, tu mi nam tử,...
=> Từ “phong vận” để chỉ nàng Tiểu Thanh.
Trả lời:
- Theo công thức về niêm, thanh điệu các chữ 2 – 4 – 6 của câu 7 (câu lẻ ở liên 4) phải giống với thanh điệu các chữ 2 – 4 – 6 của câu 6 (câu chẵn ở liên 3). Câu 6 có mô hình thanh điệu (đúng niêm) là T – B – T (“Phong vận kì oan ngã tự cư ); câu 7 có mô hình thanh điệu ở các vị trí tương ứng là B – T – B (“Bất tri tam bách dự niên hậu”), như vậy là ngược hoàn toàn so với công thức ở cả ba vị trí.
- Nội dung tư tưởng các câu thơ và mạch ý của các liên thơ được thể hiện logic. Có thể thấy, nhà thơ không câu nệ vào hình thức, niêm luật; sẵn sàng phá vỡ tính quy phạm về hình thức để cốt thể hiện cho được tư tưởng và xúc cảm của mình.
Trả lời:
- Mối quan hệ, sự tiếp nhận và ảnh hưởng Đường thi trong các sáng tác của Nguyễn Du (cả chữ Hán và chứ Năm) là một thực tế. Tiêu biểu nhất của ảnh hưởng này có thể kể đến nghệ thuật miêu tả tiếng đàn (tiếng đàn của người ca nữ trong Tì bà hành và tiếng đàn của Thúy Kiều trong Truyện Kiều). Tuy nhiên, trong trường hợp này, không thể xác định Nguyễn Du chịu ảnh hưởng của Bạch Cư Dị về bút pháp nghệ thuật hay về nội dung so sánh hai câu thơ trong hai sáng tác, cũng không có biểu hiện của việc dụng điển.
- Bạch Cư Dị và Nguyễn Du là những nhà thơ có cùng tư tưởng hiện thực và tinh thần nhân đạo sâu sắc. Họ đều có những trải nghiệm và suy tư về thân phận bi kịch của con người và thời đại mình sống; cùng có những tác phẩm nổi tiếng viết về thân phận người con gái tài sắc trong xã hội phong kiến. Hai câu thơ nói trên cho thấy cả hai nhà thơ đều có chung một suy tư, một tâm hồn đồng cảm với số phận những người phụ nữ tài sắc nhưng bất hạnh. Cả hai nhà thơ đều vượt qua giới hạn của hệ tư tưởng phong kiến, vốn trọng nam khinh nữ, để cùng đồng nhất thân phận của mình (một vị quan, một đấng nam nhi) với thân phận nhỏ bé của người phụ nữ bất hạnh. Bạch Cư Dị trong bài Tì bà hành coi số phận của mình cũng giống số phận của người ca nữ: “Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân”. Nguyễn Du coi mình là người cùng hội cùng thuyền với kẻ phong nhã, tự mình có chung nỗi oan khiên lạ lùng mà khách má hồng phải chịu đựng: “Phong vận kì oan ngã tự cư”
Trả lời:
- Nguyên văn nội dung của hai câu kết: “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” (Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,/ Trong thiên hạ, người nào sẽ khóc Tố Như?). Cụm từ “hà nhân” (người nào?, ai là người?) trong nguyên văn có chức năng là một ý hỏi chi tiết (câu hỏi bộ phận), đặt trong một cấu trúc câu thơ có dạng thức trần thuật. “Tiền giả định” của câu thơ là: Hẳn có người sẽ khóc thương cho Tố Như (xem thêm gợi ý trả lời câu hỏi 6 ở dưới).
- Nội dung hai câu thơ kết trong bản dịch của Vũ Tam Tập: “Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,/ Người đời ai khóc Tố Như chăng?”. Cấu trúc “ai... chăng?” của câu thơ dịch (có ai... hay không?) đã chuyển ý hỏi bộ phận trong nguyên văn thành một câu có cấu trúc nghi vấn (câu hỏi toàn bộ).“Tiền giả định” của câu thơ dịch là: Tác giả không biết có ai sẽ khóc Tố Như hay không?
Trả lời:
- Trong bài tựa Truyện Kiều, Mộng Liên Đường chủ nhân đã liên hệ từ việc Thuý Kiều khóc thương người hồng nhan bạc mệnh đời trước là Đạm Tiên, đến việc Nguyễn Du thương cảm cho số phận nàng Kiều thời xưa để bình luận về cái “thông lụy” (mối lụy chung) của người tài tử.
- Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kí xót thương cho người đời trước là Tiểu Thanh và thương cho thân phận mình, đồng nhất thân phận của mình với thân phận kẻ hồng nhan (“Cái án phong lưu khách tự mang”). Từ đó, nhà thơ dự cảm và việc người đời sau, theo lẽ “đồng bệnh tương liên, hẳn có kẻ khóc thương cho Tố Như – người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, với nỗi đau của người trong cuộc dành cho những số phận tài tử, hồng nhan, bất hạnh. Tuy câu thơ của Nguyễn Du có ý cảm thán về số phận tự thán, nhưng hoàn toàn có cơ sở để gắn kết cảm xúc, tâm sự, dự cảm ấy với ý kiến khái quát rất sâu sắc mà Mộng Liên Đường chủ nhân đã viết trong bài tựa Truyện Kiều.
Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 11 Bài 6: Nguyễn Du – Những điều trông thấy mà đau đớn lòng hay khác: