Đọc hai đoạn trích nhật kí dưới đây trang 40 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
Đọc hai đoạn trích nhật kí dưới đây:
Đọc hai đoạn trích nhật kí dưới đây trang 40 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
Câu 4 trang 40 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Đọc hai đoạn trích nhật kí dưới đây:
6.5.1972 “Nhìn những ngọn núi xanh xa xa, cây cối sùi lên như mây trên đỉnh núi, mình hiểu rằng, đấy chính là chân Trường Sơn – Khi nào mình được đứng hẳn trên Trường Sơn nhỉ, đứng ở đó, nhìn ra bốn phía mênh mông, thấy những dải rừng cháy tan hoang vì bom napan và chất độc hoá học Mỹ – và được gặp những người chiến sĩ lăn lộn ngày đêm trên tuyến lửa. Mình đã ao ước từ lâu, được ngắt một chùm lá săng lẻ, được đi dưới rừng khộp và mắc võng trên những cây rừng đã mòn vết người đi trước. Mình hiểu rằng, những cái đó đều phải trả giá bằng mồ hôi và cả máu nữa – Phải trả một giá khá đắt. Nhưng có hề gì, không dám hi sinh làm gì có hạnh phúc, niềm vui?”. 25.5.72 “Có thể ngày mai, cuộc đời sẽ trả lời mình bằng luồng gió lạnh ngắt, nhưng có hề chi, khi mình đã cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn chính trực và cao cả – Biết yêu và biết ghét – Biết lăn lộn trong cái bình dị của cuộc sống mà cảm hiểu hạnh phúc không có gì so sánh nổi. Biết sống cao thượng, vươn lên trên tất cả những gì tính toán cá nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình phải nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình phải sống như vậy, phải cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn như thế – Đây là mơ ước, là nguyện vọng, quyết tâm và cũng là trách nhiệm mình phải làm. Phải làm. (Nguyễn Văn Thạc, Mãi mãi tuổi hai mươi, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2005) |
1.1.1970 “Thêm một tuổi đời, vậy là cái tuổi ba mươi đâu còn xa nữa. Vài năm nữa thôi mình sẽ trở thành một chị cán bộ già dặn, đứng đắn. Nghĩ đến đó mình thoáng thấy buồn Tuổi xuân của mình đã qua đi trong lửa khói, chiến tranh đã cướp mất hạnh phúc trong tình yêu và tuổi trẻ. Ai lại không tha thiết với mùa xuân, ai lại không muốn cái sáng ngời trong đôi mắt và trên đôi môi căng mọng khi cuộc đời còn ở tuổi hai mươi? Nhưng... tuổi hai mươi của thời đại này đã phải dẹp lại những ước mơ hạnh phúc mà lẽ ra họ phải có... Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Từ ước mơ đó mới có được những gì gọi là của riêng mình. Mình cũng như những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến, và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi đạn nổ. Tuổi trẻ của mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp trong thử thách gian lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì ngọn lửa căm thù đang ngày đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ cũng vẫn thắm đượm thêm vì màu sắc của mỡ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những đôi mắt nhìn mình? Một đôi mắt đen thâm quầng vì thức đêm nhưng bao giờ đến với mình cũng là niềm vui và sôi nổi. Một đôi mắt long lanh dưới hàng mi dài cũng vậy, bao giờ cũng đến với mình tha thiết tin yêu. Và đôi mắt tinh ranh của một người bạn gái nhìn mình như hiểu hết, như trao hết niềm tin. Th. ơi! Đó phải chăng là hạnh phúc mà chỉ Th. mới được hưởng mà thôi? Hãy vui đi, hãy giữ trọn trong lòng niềm mơ ước và để màu xanh của tuổi trẻ ngời rạng mãi trong đôi mắt và nụ cười nghe Thuỳ!” (Đặng Thuỳ Trâm, Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2009) |
Lập dàn ý cho đề văn:
Hãy so sánh tâm trạng, ước mơ và lẽ sống của hai tác giả qua hai đoạn trích “Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm” (Đặng Thuỳ Trâm) và “Mãi mãi tuổi hai mươi” (Nguyễn Văn Thạc).
Trả lời:
Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm; vấn đề cần so sánh, đánh giá.
(1) Đoạn văn của người biên soạn sách.
Thân bài:
* Tâm trạng và ước mơ của hai tác giả
− Tâm trạng và ước mơ của Đặng Thuỳ Trâm:
+ Tích cực, nhiệt huyết với lí tưởng chiến đấu cho độc lập, tự do.
+ Chấp nhận hi sinh để bảo vệ đất nước, đánh thắng giặc Mỹ, giành độc lập, tự do.
– Tâm trạng và ước mơ của Nguyễn Văn Thạc:
+ Hướng tới cuộc sống có ý nghĩa, tràn đầy lòng trung hiếu và trách nhiệm.
+ Cống hiến cho cuộc sống một tâm hồn cao cả, biết yêu và ghét, sống vượt lên
trên tính toán cá nhân.
* Lẽ sống và trách nhiệm của hai tác giả
- Lẽ sống và trách nhiệm của Đặng Thuỳ Trâm:
+ Cống hiến cho cách mạng, kháng chiến, hi sinh vì quê hương và nhân dân.
+ Ôm trọn trách nhiệm của một chiến sĩ trên tuyến lửa.
– Lẽ sống và trách nhiệm của Nguyễn Văn Thạc:
+ Sống cao thượng, vượt lên trên tính toán cá nhân, cảm nhận hạnh phúc trong cuộc sống bình dị.
+ Cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn chính trực và cao cả.
* Sự tương đồng và khác biệt
– Sự tương đồng:
+ Tâm hồn cao cả và ước mơ lớn về một cuộc sống ý nghĩa.
+ Nhìn nhận giá trị của cuộc sống và đồng lòng với lí tưởng chiến đấu cho tự do và công bằng.
– Sự khác biệt:
+ Đặng Thuỳ Trâm hướng tới sự hi sinh và cống hiến trong chiến đấu.
+ Nguyễn Văn Thạc chú trọng vào sự cao thượng trong cuộc sống bình dị và trách nhiệm với lẽ sống chân chính.
Kết bài:
– Tóm tắt những điểm chính đã trình bày trong bài viết.
– Nhấn mạnh sự đa dạng và độc lập của tâm trạng, ước mơ, lẽ sống của hai tác giả.
Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 12 Bài tập viết và nói - nghe trang 39, 40, 41, 42 hay khác:
- Câu 1 trang 39 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm kí là gì? Hãy chọn ý đúng nhất:
- Câu 2 trang 39 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Các bước chuẩn bị trước khi tìm ý, lập dàn ý và viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm kí dưới đây là đúng hay sai? Hãy đánh dấu √ vào ô phù hợp.
- Câu 3 trang 40 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Đọc văn bản dưới đây và cho biết người viết đã vận dụng tông hợp những thao tác nghị luận nào?
- Câu 5 trang 42 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Tìm ý và lập dàn ý cho đề văn:
- Câu 6 trang 42 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Thế nào là bài thuyết trình so sánh, đánh giá hai tác phẩm kí? Để thuyết trình so sánh, đánh giá hai tác phẩm kí, em cần lưu ý những gì?
- Câu 7 trang 42 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Theo em, khi thuyết trình so sánh, đánh giá hai tác phẩm kí, người nói cần làm gì để thu hút sự chú ý của người nghe?