SBT Ngữ văn 12 Bài tập viết và nói - nghe trang 39, 40, 41, 42 - Cánh diều
Haylamdo biên soạn và sưu tầm lời giải sách bài tập Văn 12 Bài tập viết và nói - nghe trang 39, 40, 41, 42 sách Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 12.
Giải SBT Ngữ văn 12 Bài tập viết và nói - nghe trang 39, 40, 41, 42 - Cánh diều
A. Trình bày rõ ràng bằng lời về một hoặc một số phương diện liên quan đến nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm kí
B. Bài viết nhằm làm sáng tỏ điểm giống nhau và khác nhau của hai tác phẩm kí bằng những luận điểm, lí lẽ và dẫn chứng cụ thể
C. Bài viết trình bày ý kiến phân tích, đánh giá về các yếu tố nội dung, hình thức của tác phẩm kí bằng những luận điểm, lí lẽ và dẫn chứng cụ thể
D. Bài viết đưa ra các ý kiến nhận xét, bình luận về nhân vật và sự việc; giúp người đọc hiểu được phẩm chất, tính cách của nhân vật kí
Trả lời:
Chọn đáp án: B. Bài viết nhằm làm sáng tỏ điểm giống nhau và khác nhau của hai tác phẩm kí bằng những luận điểm, lí lẽ và dẫn chứng cụ thể
Các bước chuẩn bị |
Đúng |
Sai |
(1) Đọc kĩ đề bài, suy nghĩ về các vấn đề đặt ra trong đề bài. |
|
|
(2) Đọc kĩ hai văn bản kí được gợi ra trong đề bài, tìm và ghi lại những chi tiết đặc sắc về hình thức và nội dung của hai tác phẩm (hoặc đoạn trích). |
|
|
(3) Đọc các tài liệu có liên quan đến tác giả, tác phẩm được gợi ra trong đề bài; ghi lại những ý kiến quan trọng, có thể dùng để trích dẫn hoặc mở rộng bàn luận. |
|
|
(4) Đọc các truyện kí hoặc tìm xem các bộ phim tài liệu, vở kịch nổi tiếng; ghi lại các liên tưởng, cảm nhận của bản thân. |
|
|
(5) Tìm ý cho bài viết bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi. |
|
|
(6) Lập dàn ý cho bài viết bằng cách lựa chọn, sắp xếp các ý theo bố cục ba phần: mở bài – thân bài – kết bài |
|
|
(7) Kiểm tra bài đã viết, nhận biết và sửa chữa các lỗi chính tả, diễn đạt. |
|
|
Trả lời:
Các bước chuẩn bị |
Đúng |
Sai |
(1) Đọc kĩ đề bài, suy nghĩ về các vấn đề đặt ra trong đề bài. |
√ |
|
(2) Đọc kĩ hai văn bản kí được gợi ra trong đề bài, tìm và ghi lại những chi tiết đặc sắc về hình thức và nội dung của hai tác phẩm (hoặc đoạn trích). |
√ |
|
(3) Đọc các tài liệu có liên quan đến tác giả, tác phẩm được gợi ra trong đề bài; ghi lại những ý kiến quan trọng, có thể dùng để trích dẫn hoặc mở rộng bàn luận. |
√ |
|
(4) Đọc các truyện kí hoặc tìm xem các bộ phim tài liệu, vở kịch nổi tiếng; ghi lại các liên tưởng, cảm nhận của bản thân. |
|
√ |
(5) Tìm ý cho bài viết bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi. |
|
√ |
(6) Lập dàn ý cho bài viết bằng cách lựa chọn, sắp xếp các ý theo bố cục ba phần: mở bài – thân bài – kết bài |
|
√ |
(7) Kiểm tra bài đã viết, nhận biết và sửa chữa các lỗi chính tả, diễn đạt. |
|
√ |
“Qua kí ức của đồng đội và đọc lại cuốn Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm, tôi càng củng cố sâu sắc thêm về lòng cảm phục với nữ bác sĩ trẻ đã sống và hi sinh một cách rất đẹp đẽ này. Chị Thuỳ Trâm là tấm gương tiêu biểu của người trí thức đi vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, với tất cả sự trong sáng của tâm hồn. Những phẩm chất của chị đã khiến chính những kẻ thù của chị phải khuất phục. Qua từng trang nhật kí đã hiện rõ hơn tâm hồn của một người con gái đẹp đẽ. Những vò xé, day dứt về tình yêu và những quan hệ cuộc sống, rồi nổi lên là nỗi nhớ gia đình khiến chị trở thành một con người rất đặc biệt nhưng cũng rất bình dị.
Tôi gọi chị là một thiên thần bởi những phẩm chất của chị đã thuyết phục bất cứ ai ở bất cứ chiến tuyến nào. Thuỳ Trâm viết những dòng nhật kí này là cho riêng mình, nếu chị còn sống thì có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ được đọc những dòng chữ ấy. Vượt lên trên một cuốn nhật kí thông thường, Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm đã trở thành một tác phẩm văn học rất giá trị, rất đặc biệt, rất riêng tư. Và chính bởi ta đang hướng đến. những lí do đó mà cuốn sách như một cây cầu nối những giá trị nhân bản mà chúng ta đang hướng đến”.
(Theo Thanh Thảo, nhandan.vn, ngày 28/07/2005)
A. Giải thích và bình luận
B. Phân tích và bác bỏ
C. Phân tích và chứng minh
D. So sánh và bình luận
Trả lời:
Chọn đáp án: C. Phân tích và chứng minh
Câu 4 trang 40 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Đọc hai đoạn trích nhật kí dưới đây:
6.5.1972 “Nhìn những ngọn núi xanh xa xa, cây cối sùi lên như mây trên đỉnh núi, mình hiểu rằng, đấy chính là chân Trường Sơn – Khi nào mình được đứng hẳn trên Trường Sơn nhỉ, đứng ở đó, nhìn ra bốn phía mênh mông, thấy những dải rừng cháy tan hoang vì bom napan và chất độc hoá học Mỹ – và được gặp những người chiến sĩ lăn lộn ngày đêm trên tuyến lửa. Mình đã ao ước từ lâu, được ngắt một chùm lá săng lẻ, được đi dưới rừng khộp và mắc võng trên những cây rừng đã mòn vết người đi trước. Mình hiểu rằng, những cái đó đều phải trả giá bằng mồ hôi và cả máu nữa – Phải trả một giá khá đắt. Nhưng có hề gì, không dám hi sinh làm gì có hạnh phúc, niềm vui?”. 25.5.72 “Có thể ngày mai, cuộc đời sẽ trả lời mình bằng luồng gió lạnh ngắt, nhưng có hề chi, khi mình đã cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn chính trực và cao cả – Biết yêu và biết ghét – Biết lăn lộn trong cái bình dị của cuộc sống mà cảm hiểu hạnh phúc không có gì so sánh nổi. Biết sống cao thượng, vươn lên trên tất cả những gì tính toán cá nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình phải nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình phải sống như vậy, phải cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn như thế – Đây là mơ ước, là nguyện vọng, quyết tâm và cũng là trách nhiệm mình phải làm. Phải làm. (Nguyễn Văn Thạc, Mãi mãi tuổi hai mươi, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2005) |
1.1.1970 “Thêm một tuổi đời, vậy là cái tuổi ba mươi đâu còn xa nữa. Vài năm nữa thôi mình sẽ trở thành một chị cán bộ già dặn, đứng đắn. Nghĩ đến đó mình thoáng thấy buồn Tuổi xuân của mình đã qua đi trong lửa khói, chiến tranh đã cướp mất hạnh phúc trong tình yêu và tuổi trẻ. Ai lại không tha thiết với mùa xuân, ai lại không muốn cái sáng ngời trong đôi mắt và trên đôi môi căng mọng khi cuộc đời còn ở tuổi hai mươi? Nhưng... tuổi hai mươi của thời đại này đã phải dẹp lại những ước mơ hạnh phúc mà lẽ ra họ phải có... Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Từ ước mơ đó mới có được những gì gọi là của riêng mình. Mình cũng như những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến, và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi đạn nổ. Tuổi trẻ của mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp trong thử thách gian lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì ngọn lửa căm thù đang ngày đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ cũng vẫn thắm đượm thêm vì màu sắc của mỡ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những đôi mắt nhìn mình? Một đôi mắt đen thâm quầng vì thức đêm nhưng bao giờ đến với mình cũng là niềm vui và sôi nổi. Một đôi mắt long lanh dưới hàng mi dài cũng vậy, bao giờ cũng đến với mình tha thiết tin yêu. Và đôi mắt tinh ranh của một người bạn gái nhìn mình như hiểu hết, như trao hết niềm tin. Th. ơi! Đó phải chăng là hạnh phúc mà chỉ Th. mới được hưởng mà thôi? Hãy vui đi, hãy giữ trọn trong lòng niềm mơ ước và để màu xanh của tuổi trẻ ngời rạng mãi trong đôi mắt và nụ cười nghe Thuỳ!” (Đặng Thuỳ Trâm, Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2009) |
Lập dàn ý cho đề văn:
Hãy so sánh tâm trạng, ước mơ và lẽ sống của hai tác giả qua hai đoạn trích “Nhật kí Đặng Thuỳ Trâm” (Đặng Thuỳ Trâm) và “Mãi mãi tuổi hai mươi” (Nguyễn Văn Thạc).
Trả lời:
Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm; vấn đề cần so sánh, đánh giá.
(1) Đoạn văn của người biên soạn sách.
Thân bài:
* Tâm trạng và ước mơ của hai tác giả
− Tâm trạng và ước mơ của Đặng Thuỳ Trâm:
+ Tích cực, nhiệt huyết với lí tưởng chiến đấu cho độc lập, tự do.
+ Chấp nhận hi sinh để bảo vệ đất nước, đánh thắng giặc Mỹ, giành độc lập, tự do.
– Tâm trạng và ước mơ của Nguyễn Văn Thạc:
+ Hướng tới cuộc sống có ý nghĩa, tràn đầy lòng trung hiếu và trách nhiệm.
+ Cống hiến cho cuộc sống một tâm hồn cao cả, biết yêu và ghét, sống vượt lên
trên tính toán cá nhân.
* Lẽ sống và trách nhiệm của hai tác giả
- Lẽ sống và trách nhiệm của Đặng Thuỳ Trâm:
+ Cống hiến cho cách mạng, kháng chiến, hi sinh vì quê hương và nhân dân.
+ Ôm trọn trách nhiệm của một chiến sĩ trên tuyến lửa.
– Lẽ sống và trách nhiệm của Nguyễn Văn Thạc:
+ Sống cao thượng, vượt lên trên tính toán cá nhân, cảm nhận hạnh phúc trong cuộc sống bình dị.
+ Cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn chính trực và cao cả.
* Sự tương đồng và khác biệt
– Sự tương đồng:
+ Tâm hồn cao cả và ước mơ lớn về một cuộc sống ý nghĩa.
+ Nhìn nhận giá trị của cuộc sống và đồng lòng với lí tưởng chiến đấu cho tự do và công bằng.
– Sự khác biệt:
+ Đặng Thuỳ Trâm hướng tới sự hi sinh và cống hiến trong chiến đấu.
+ Nguyễn Văn Thạc chú trọng vào sự cao thượng trong cuộc sống bình dị và trách nhiệm với lẽ sống chân chính.
Kết bài:
– Tóm tắt những điểm chính đã trình bày trong bài viết.
– Nhấn mạnh sự đa dạng và độc lập của tâm trạng, ước mơ, lẽ sống của hai tác giả.
Câu 5 trang 42 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Tìm ý và lập dàn ý cho đề văn:
Trong cuốn nhật kí về những ngày đi trốn cùng gia đình ở Hà Lan trong thời kì Đức quốc xã chiếm đóng, An-nơ Phranh (Anne Frank) đã viết: “Mình làm sao có Trong cuốn nhật kí về những ngày đi trốn cùng gia đình ở Hà Lan trong thời k thể buồn rầu khi có Mặt Trời và bầu trời? — tôi tự hỏi. Chúa muốn chúng ta hạnh mọi nỗi lo âu.”. Trong cuốn nhật kí về những ngày chông chọi với căn bệnh nan phúc và ngắm nhìn cái đẹp của thế giới này. Điều đó giúp cho chúng tôi vượt qua y, Ki-tô A-ya viết: “Mình giờ đã thành một đứa chẳng thể làm gì ngoài khóc lóc. Có một phức cảm thấp kém đang lớn lên trong đầu mình. Có lẽ đó là kết quả của sự tàn tật. Nhưng ít ra mình vẫn đang sống. Mình phải hít thở và tiếp tục sống, bởi mình không thể chết, chẳng có cách nào khác. Thật đáng sợ. Nếu cứ khóc thì những nếp nhăn trên mặt và trên mắt sẽ khiến khuôn mặt mình xấu xí. Để cải thiện cái sự xấu xí đó, mỗi khi nhìn vào gương mình lại nhe răng cười toe toét, dẫu lúc đó chẳng có chuyện gì vui mình cũng cười.
Hãy sống!”.
Hãy so sánh, đánh giá cách nhìn cuộc sống và tinh thần đối mặt với tình thế khó khăn của hai thiếu nữ An-nơ Phranh và Ki-tô A-ya.
Trả lời:
Mở bài
- Giới thiệu về hai nhân vật Anne Frank và Kito Aya.
- Trích dẫn hai đoạn nhật ký để làm nổi bật cách nhìn cuộc sống và tinh thần đối mặt với khó khăn của họ.
Thân bài
* Giới thiệu về hoàn cảnh và tình thế khó khăn của hai nhân vật
- Anne Frank:
+ Hoàn cảnh: Sống trong thời kỳ Đức Quốc xã chiếm đóng Hà Lan, phải lẩn trốn cùng gia đình để tránh bị bắt.
+ Tình thế khó khăn: Sống trong sự sợ hãi, thiếu thốn và nguy hiểm liên tục.
- Kito Aya:
+ Hoàn cảnh: Bị mắc căn bệnh thoái hóa tiểu não, một căn bệnh nan y không có phương pháp chữa trị.
+ Tình thế khó khăn: Phải đối mặt với sự suy giảm sức khỏe, mất dần khả năng vận động và những khó khăn tâm lý.
* Cách nhìn cuộc sống của hai nhân vật
- Anne Frank:
+ Lạc quan và yêu đời: Dù sống trong hoàn cảnh khó khăn, Anne vẫn tìm thấy niềm vui và sự an ủi từ những điều nhỏ bé như mặt trời và bầu trời.
+ Niềm tin vào Chúa: Anne tin rằng Chúa muốn mọi người hạnh phúc và ngắm nhìn cái đẹp của thế giới, điều này giúp cô vượt qua nỗi lo âu1.
- Kito Aya:
+ Nhận thức rõ về tình trạng của mình: Aya hiểu rõ sự tàn tật và những khó khăn mà căn bệnh mang lại.
+ Tự động viên và cố gắng sống tích cực: Aya cố gắng cười và tìm niềm vui trong những điều nhỏ bé để vượt qua nỗi sợ hãi và cảm giác tự ti2.
* Tinh thần đối mặt với khó khăn của hai nhân vật
- Anne Frank:
+ Tinh thần kiên cường: Anne luôn giữ vững niềm tin và hy vọng, không để hoàn cảnh làm mất đi sự lạc quan của mình.
+ Sự đồng cảm và chia sẻ: Anne viết nhật ký để chia sẻ cảm xúc và suy nghĩ, giúp cô cảm thấy bớt cô đơn và mạnh mẽ hơn1.
- Kito Aya:
+ Tinh thần kiên trì: Aya không từ bỏ hy vọng, luôn cố gắng luyện tập và tự động viên bản thân để vượt qua khó khăn.
+ Sự chấp nhận và đối mặt: Aya chấp nhận tình trạng của mình và tìm cách sống tích cực, dù biết rằng không thể thay đổi được hoàn cảnh2.
* So sánh và đánh giá
- Giống nhau:
+ Cả hai đều có tinh thần kiên cường và không từ bỏ hy vọng dù hoàn cảnh rất khó khăn.
+ Họ tìm thấy niềm vui và sự an ủi từ những điều nhỏ bé trong cuộc sống.
* Khác nhau:
+ Anne Frank dựa vào niềm tin tôn giáo và sự lạc quan để vượt qua khó khăn.
+ Kito Aya tự động viên bản thân và chấp nhận tình trạng của mình để sống tích cực.
Kết bài
- Khái quát lại những điểm giống và khác nhau trong cách nhìn cuộc sống và tinh thần đối mặt với khó khăn của Anne Frank và Kito Aya.
- Đánh giá khách quan về hai cách nhìn và tinh thần này, nhấn mạnh giá trị nhân văn và bài học mà chúng mang lại.
Trả lời:
Thuyết trình so sánh, đánh giá hai tác phẩm kí là trình bày bằng lời kết quả đối chiếu, nhận định giá trị nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm kí. Để so sánh, đánh giá hai tác phẩm kí, cần lưu ý như sau:
- Đọc kĩ hai tác phẩm kí, tìm hiểu, ghi lại các thông tin về tác giả, bối cảnh văn hoá – xã hội – lịch sử của tác phẩm; năm vững đặc sắc hình thức và nội dung của tác phẩm.
- Xem lại dàn ý và bài viết đã thực hiện ở phần Viết, suy nghĩ kĩ để tìm ý hoặc bổ sung ý mới, cố gắng tìm ra góc nhìn riêng so với bài đã viết hoặc các tài liệu đã tham khảo, điều chỉnh dàn ý cho mạch lạc, phù hợp.
- Xác định mục đích, bối cảnh, đối tượng nghe thuyết trình để có hình thức trình bày phù hợp.
Trả lời:
Để bài thuyết trình thuyết trình so sánh, đánh giá hai tác phẩm kí thu hút sự chú ý của người nghe, người nói cần:
- Nêu vấn đề để người nghe cùng thảo luận và tham gia vào việc nhận xét, góp ý. Cung cấp thêm tài liệu và nguồn tham khảo để người nghe tìm hiểu sâu hơn về hai tác phẩm kí
Phối hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ cơ thể với các phương tiện như tranh, ảnh, video, máy chiếu, màn hình (nếu có) để bài thuyết trình thêm sinh động.
Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 12 Bài 3: Nhật kí, phóng sự, hồi kí hay khác: