SBT Ngữ văn 12 Khúc tráng ca nhà giàn - Cánh diều
Haylamdo biên soạn và sưu tầm lời giải sách bài tập Văn 12 Khúc tráng ca nhà giàn sách Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 12.
Giải SBT Ngữ văn 12 Khúc tráng ca nhà giàn - Cánh diều
Câu 1 trang 32 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Vấn đề chính mà văn bản trên đề cập là:
A. Vai trò của nhà giàn trong bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc
B. Hành trình đến nhà giàn trên quần đảo Trường Sa rất khó khăn, nguy hiểm
C. Nhà giàn trên biển giúp phát hiện nguồn tài nguyên quý giá của đất nước
D. Nhà giàn trên biển giúp kết nối với đất liền để phát triển du lịch của đất nước
Trả lời:
Chọn đáp án: A. Vai trò của nhà giàn trong bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc
A. Cảm phục và trân trọng
B. Đùa vui và yêu thương
C. Đồng cảm và tếu táo
D. Cảm thông và giễu nhại
Trả lời:
Chọn đáp án: A. Cảm phục và trân trọng
A. Sắc lờ đờ nước hến kia cỡ vài chục mét.
B. Con tàu xé sóng lách màn đêm vào khu vực Ba Kè
C. Đồng hồ chỉ 4 giờ sáng.
D. Bên tàu ngó sang bên chòi mà rưng rưng nước mắt.
Trả lời:
Chọn đáp án: B. Con tàu xé sóng lách màn đêm vào khu vực Ba Kè
Trả lời:
Khúc tráng ca nhà giàn đã sử dụng những biện pháp đặc trưng của thể phóng sự như: điều tra, đối thoại, ghi chép....
– Một vài dẫn chứng cụ the:
+ Người viết đã điều tra cụ thể về sự khác biệt của ba thế hệ nhà giàn; đã đưa ra số liệu cụ thể về 14 cán bộ, chiến sĩ trên những nhà giàn thô sơ đã hi sinh khí phải đối diện với bão cấp 12 những năm 1990, 1996, 1999,...
+ Người viết đã ghi lại cụ thể bối cảnh của chuyến đi ra nhà giàn Ba Kè từ lúc 4 giờ sáng, sự dữ dằn của biển cả, chiếc xuống như chiếc lá giữa đại dương mênh móng đầy sóng lớn,...
Trả lời:
Chi tiết gây ấn tượng với em là tên của những người chiến sĩ đã ngã xuống lòng biển khơi không bao giờ tỉnh dậy. Mỗi cái tên như thêm một lần đau xót, thêm một lần mất mát, khiến lòng em cũng thấy xót xa, thương tiếc cho những con người vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân mà chấp nhận hiểm nguy tính mạng.
Trả lời:
- Tính phi hư cấu của văn bản thể hiện ở những ghi chép xác thực về thời gian, không gian, địa danh, tên người thật, việc thật, số liệu của sự kiện mà người viết trực tiếp tham gia và trải nghiệm (chuyến đi từ 4 giờ sáng đến Ba Kè thuộc quần đảo Trường Sa; tên cán bộ, chiến sĩ, nhà thơ đã từng đến Trường Sa như đại tá Chấn, tướng Giáp Văn Cương, nhà thơ Trần Đăng Khoa; 14 cán bộ, chiến sĩ hi sinh trong các trận bão biển,...),...
- Khúc tráng ca nhà giàn đã sử dụng những biện pháp đặc trưng của thể loại phóng sự như: điều tra, đối thoại, ghi chép,... nhằm cung cấp thông tin đầy đủ cho người đọc, đồng thời bộc lộ trực tiếp thái độ, đánh giá của người viết.
- Sự kết hợp thủ pháp miêu tả với trần thuật trong tái hiện các chi tiết, sự việc khiến người đọc hình dung đầy đủ về những gian khổ, hi sinh của cán bộ, chiến sĩ trên các nhà giàn ngày đêm bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.
Trả lời:
Theo em, tác giả đã đưa ra một vấn đề rất quan trọng và ý nghĩa đối với xã hội hiện nay. Thông qua bài phóng sự đã giúp người đọc thấm thía hơn những nỗi vất vả, mất mát của các chiến sĩ nhà giàn và gia đình của họ, bài viết đã lay động đến trái tim người đọc. Vì vậy bài phóng sự như một lời kêu gọi, thức tỉnh mọi người trong xã hội cần có lòng biết ơn và luôn nhớ đến những con người đã và đang ngày đêm đối mặt hiểm nguy để bảo vệ Tổ quốc.
Câu 8 trang 33 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Tóm tắt: Vẽ nhọ bôi hề là phóng sự của Thiên Hư – Vũ Trọng Phụng đăng trên báo Phụ nữ thời đàm (Hà Nội) năm 1934, thời Pháp thuộc. Tác phẩm điều tra “hậu trường” sân khấu hát và phản ánh chân thực cuộc sống hoặc thất nghiệp, hoặc nhọc nhằn “cười ra nước mắt” của lớp nghệ sĩ (đào, kép) thời bấy giờ. Điều đó cho thấy cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm 1929 – 1933 đã ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Mặt khác, thời đó, văn hoá phương Tây du nhập mạnh mẽ vào nước ta, nhiều loại hình nghệ thuật giải trí hiện đại ngày càng được công chúng ưa chuộng như kịch nói và đặc biệt là nghệ thuật thứ bảy (điện ảnh) khiến nghệ thuật truyền thống của dân tộc như chèo, tuồng, cải lương bị cạnh tranh gay gắt trong vấn đề tồn tại.
Văn bản dưới đây được trích từ tác phẩm.
*
Sân khấu là cái chợ bày trò kim cổ, xếp cuộc tang thương.
Chợ ấy, muốn vào, phải nộp tiền “vào cửa”.
Cửa chợ phải mở to để đón khách vào xem, mà không lẽ lấy tiền vào cửa cả khóe mắt mọi người qua lại, nên sau chiếc khuôn cửa phải có cái màn đỏ. Giọng hát tiếng đàn lọt ra ngoài như giục khách vứt ra mấy hào để cuốn tấm màn kia mà xem trò tang thương nọ. Chiếc màn ấy là vật quan hệ nhất trong một rạp hát. Khách muốn đọc câu thần chú “Vừng, vừng, mở ra” thì hãy chịu khó rút ví ra đạo bùa linh ứng: tiền.
Thế mà tôi đã trông thấy rạp hát kia có lần “bỏ rợ” cái màn, vì nó thành ra vô ích. Cả sân khấu hôm đó cũng không làm cái việc thường ngày của nó: người ta đã dùng nó để bày một bàn thờ lộng lẫy, đèn nến sáng trưng. Tại chỗ những dãy ghế khách ngồi, lúc này là những bàn tiệc phủ vải trắng tinh bên trên có những lọ hoa hồng. Và đáng lẽ nghe thấy giọng than của đào Đính, tiếng hét của kép Ba Liêu, điệu âm nhạc hỗn loạn của cái trống cái, cái thanh la, cái kèn tàu, ta chỉ thấy văng vẳng, tỉ lệ mấy tiếng dây tơ có lẫn giọng ngân thánh thót của một chị em dưới xóm.
Cho thấy cố nhân?
Đâu tìm đâu cho thấy cố nhân?
Hôm đó, ban trị sự, các ngài cổ động, ban đào kép, cả ba phái đã hội họp nhau ăn tiệc tại nơi này. Tôi đã trông thấy những người có bộ mặt tươi cười của ngày tết Nguyên đán. Trước khi quây nhau lại chè chén, người ta túm năm tụm ba thành những đám nhỏ, tản mạn khắp rạp. Cốt câu chuyện là việc thịnh suy của rạp, những là lãi năm nay kém lãi năm ngoái hai nghìn nhưng số lãi cũng là vạn hai. Lãi cuối năm vạn hai! Ai mà không hể hả! Người ta ăn tiệc rồi người ta chia lãi. Ông chánh ban trị sự hút xì gà thì người phu khiêng đồ trong rạp cũng phì phèo điếu thuốc lá Anh. Và, có điều là đáng để ý vô cùng, là bọn người này, những người bán hỉ, nộ, ai, lạc cho đời, trong lúc vui sướng của mình lại phải cần vui ở giọng hát cung đàn của vài chị em dưới xóm!
Vậy thì, tôi đã thấy cái quang cảnh tưng bừng của một rạp hát vào cái ngày mà người ta vén toang cái màn đỏ, mà các bạn hát tế Tổ, mà những người có cổ phần cùng ban trị sự cũng tế một ông Tổ khác nữa: Thần Kim Tiền. Một người trèo thang lên cổng rạp mắc vào tường tràng pháo dài một thước tây. Đứng dưới là một bạn trẻ con... hăm hở.
– Thế nào, đã giáp mặt ông chủ chửa?
– Chửa.
– Thế còn đợi đến bao giờ?
– Phải chờ lúc nào người ta không bận việc mới được chứ.
Thoạt tiên tôi cũng không để ý mấy tới những câu hỏi, đáp trên này. Chợt thấy một giọng gay gắt của một người thứ ba:
– Đã bảo vào thì cứ vào phăng ngay đi lại còn trù trừ mãi. Ở đây đã ngót tuần lễ rồi, nếu không quyết định thì... liệu có còn nổi tiền ăn đường về hay không?
– Anh ngu lắm! Dù sao cũng phải giữ cái giá trị của mình mới được chứ!
– Giá trị! Lại còn giá trị! Có hoạ giá trị cái cóc khô!
Câu chuyện đương êm đềm bỗng thành ra xô xát. Tôi ngoảnh lại. Đó là hai người, cũng khăn lượt, áo kép the, giày tàu, trông có vẻ nửa quê nửa tỉnh, không có gì đặc sắc nếu mỗi người không có một chiếc răng vàng lẫn vào hai hàm răng đen. Còn người đã vô tình vì hỏi thăm mà gây cuộc hục hặc nhau cho hai người này là một người đàn bà bán hàng nước.
Cứ những cái tai nghe mắt thấy ấy cũng đã đủ khiến tôi đoán nổi rằng đó hẳn là hai bác kép về tìm việc làm tại đây. Khi họ đã chán chê đứng ngắm cái cảnh sung sướng chẳng phải của mình mà kéo nhau đi, tôi theo người đàn bà về hàng nước. Quả nhiên, tôi đã đoán nhắm…
– Thưa ông, đó là hai tay kép có tiếng ở Bắc Giang, vì rạp trên đó tan nên về đây tìm việc. Chả biết có thành cơm cháo gì không! Hiện nay, trong Quảng Lạc đã có tới năm mươi đào kép rồi.
– Chắc số đào kép nghỉ việc hiện nay cũng chẳng phải là ít.
– Hằng hà sa số ông ạ. Mới hôm kia tôi cũng biết hai người. Lại cách đây một tháng, ba người. Tôi biết rõ lắm vì họ thường trọ tại nhà hàng cơm của chị tôi. Một người hình như đã được vào Sán Nhiên Đài và một người vào Cải lương hí viện. Còn ba người nữa hình như phải quay về quê cả rồi. Thời buổi này, nghề gì chả khó.
Tôi biết tìm cách nào hòng làm cái biểu thống kê những đào kép thất nghiệp – đàn thiêu thân khốn khổ đến nỗi chẳng chen nổi một chỗ bay quanh cái bóng đèn, muốn tự thiêu cũng không xong? Sân khấu một rạp hát Hà Thành đối với bọn này là Bồng Lai hay là Địa Ngục?
[...]
– Hằng hà sa số ông ạ.
Câu nói trên này còn văng vẳng mãi bên tại tôi. [...] Thế kỉ này là thế kỉ vội mà sân khấu cũng đã hết cất tiếng gọi trong dân gian. Mọi sự tiến bộ đều đi mau nhưng nạn thất nghiệp còn đi mau hơn hết! [...]
(Vũ Trọng Phụng, Vẽ nhọ bôi hề, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000)
a) Xác định đề tài và đặt tên cho văn bản trên (khác tên tác giả đã đặt cho văn bản).
b) Chỉ ra tính phi hư cấu của thể loại phóng sự được thể hiện qua văn bản trên.
Trả lời:
a)
- Đề tài: Sự tồn tại của sân khấu truyền thống trong đời sống hiện đại / Số phận của sân khấu truyền thống thời hiện đại,...
- Đặt tên cho văn bản: Sân khấu truyền thống một thời vang bóng / Số phận của đào kép thời nay,...
b) Tác giả đã điều tra, đối thoại, ghi chép,... để cung cấp thông tin xác thực về tình trạng thất nghiệp của các đào kép, thực trạng các rạp biểu diễn sân khấu truyền thống chèo, tuồng, cải lương của Hà Thành một thời huy hoàng, rực rỡ, giờ đây có nguy cơ phải đóng cửa và nghệ sĩ đứng trước nguy cơ thất nghiệp (rạp Quảng Lạc, Sán Nhiên Đài, Cải lương hí viện, năm mươi đào kép, hai kép nổi tiếng ở Bắc Giang lặn lội xuống Hà Thành tìm việc,...),...
Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 12 Bài 3: Nhật kí, phóng sự, hồi kí hay khác: