Soạn bài Trao duyên - ngắn nhất Chân trời sáng tạo
Haylamdo biên soạn và sưu tầm soạn bài Trao duyên trang 38, 39, 40, 41 ngắn nhất mà vẫn đủ ý được biên soạn bám sát sách Ngữ văn lớp 11 Chân trời sáng tạo giúp học sinh soạn văn 11 dễ dàng hơn.
Soạn bài Trao duyên - ngắn nhất Chân trời sáng tạo
* Chuẩn bị đọc
Câu hỏi (trang 38 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2): Trong cuộc sống, đôi khi có những điều rất khó nói, nhưng vẫn phải tìm cách nói ra để nhận được sự cảm thông, chia sẻ của một người nào đó. Đã bao giờ bạn gặp một tình huống như vậy chưa? Hãy chia sẻ với các bạn hoặc lắng nghư chia sẻ của bạn về trải nghiệm đó.
Trả lời:
- Em không học tốt môn Toán. Các bài học cô giáo giảng trên lớp đôi khi em không theo kịp. Điều đó dẫn đến em bị hổng rất nhiều kiến thức và ngày càng tự ti hơn. Nhưng sau khi suy nghĩ kĩ, em đã cố gắng nói ra cho cô giáo. Ngay sau đó, cô đã dành các buổi tự học để hướng dẫn riêng cho em các phần em không hiểu. Thật tốt là sau đó, em đã cải thiện được điểm số môn Toán của mình.
* Trải nghiệm cùng văn bản
1. Theo dõi: Phân biệt lời của người kể chuyện và lời của nhân vật trong đoạn này.
- Lời người kể chuyện từ “Nỗi riêng riêng những bàn hoàn……Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:”
- Lời nhân vật: “Cơ trời dâu bể đa đoan ... Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?” và câu thơ “Lòng đương thổn thức đầy”.
2. Suy luận: Cách mở đầu cho câu chuyện sắp nói với Thuý Vân của Kiều có gì khác thường?
- Những từ “cậy”, “lạy”, “thưa”: thể hiện thái độ cầu xin, khẩn thiết của người ở vai dưới nói chuyện với người vai trên. Thúy Kiều đã dành sự tôn trọng đặc biệt cho người em gái mà mình nhờ vả.
=> Cách mở đầu của Thúy Kiều thể hiện sự tin tưởng, dằn vặt, ngập ngừng với câu chuyện “trao duyên” sắp bày tỏ với Thúy Vân.
3. Tưởng tượng: Bạn hình dung thế nào về dáng vẻ, tâm trạng, giọng nói của Thuý Kiều trong đoạn từ dòng thơ 741 đến dòng 756 ở cuối văn bản?
- Kiều giằng xé trong nội tâm, đau đớn và nhớ thương Kim Trọng. Tâm trạng đau đớn đến cùng cực, mất lí trí của Thúy Kiều khi hướng về tình yêu của mình và Kim Trọng.
* Suy ngẫm và phản hồi
Nội dung chính: Kiều ngồi thao thức nghĩ đến thân phận và tình yêu lỡ dở của mình. Nàng nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho chàng Kim. Đoạn trích thể hiện bi kịch trong tình yêu của Thúy Kiều và nỗi đau của số phận con người trong xã hội phong kiến.
Câu 1 (trang 41 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2): Việc “trao duyên” và cuộc trò chuyện giữa chị em Thuý Kiều – Thuý Vân được thuật lại theo ngôi kể nào? Những dấu hiệu nào giúp bạn nhận biết điều đó?
- Việc “trao duyên” và cuộc trò chuyện giữa chị em Thuý Kiều – Thuý Vân được thuật lại từ ngôi thứ ba.
- Dấu hiệu nhận biết:
+ Sự phân biệt giữa lời của người kể chuyện (bốn dòng thơ đầu, từ “rằng”, hai dòng thơ cuối) và lời của nhân vật (đánh dấu bằng dấu hai chấm, dấu gạch ngang và trích dẫn nguyên văn lời của các nhân vật).
+ Cách người kể chuyện gọi tên nhân vật (“Thuý Vân”) và cách thuật lại nguyên văn từ ngữ xưng gọi “chị”, “em” giữa hai chị em Thuý Kiều – Thuý Vân.
+ Miêu tả cụ thể, chi tiết nội tâm, hành động, biểu cảm, tâm trạng của Thúy Kiều - Thúy Vân.
+ Người kể chuyện không hề xưng “tôi”, “chúng tôi” khi trần thuật.
Câu 2 (trang 41 sgk Ngữ văn 11 Tập 2 – Chân trời sáng tạo): Xác định số dòng thơ biểu đạt lời của mỗi nhân vật. Chỉ ra sự khác biệt về độ dài (tính bằng số dòng thơ) giữa lời thoại của hai nhân vật và giải thích sự khác biệt ấy.
Trả lời:
- Số dòng thơ biểu đạt lời nhân vật Thúy Kiều: 38 dòng (719 - 756)
- Số dòng thơ biểu đạt lời nhân vật Thúy Vân: 4 câu (715 - 718)
=> Độ dài (tính bằng số dòng thơ) giữa lời thoại của Thúy Kiều lớn hơn nhiều Thúy Vân.
- Lí do: Thúy Kiều là nhân vật, người nói chính, nhờ cậy, gửi gắm, do vậy cần một câu chuyện có đầu có đuôi, đầy tâm trạng và nỗi niềm. Lời của Kiều nhằm thực hiện mục đích thuyết phục một vấn đề hết sức tế nhị, khó khăn. Trong khi đó, Thúy Vân là người nghe, chia sẻ; chỉ cần “hỏi han” gợi chuyện cho Kiều bày tỏ.
Câu 3 (trang 41 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2): Lời thoại của Thuý Vân có vai trò như thế nào đối với sự tiến triển của câu chuyện?
- Lời “ân cần hỏi han” của Thuý Vân là một cách mang lại tình cảm chị em ấm áp đối với người chị đang rất mực cô đơn với gánh nặng tinh thần chưa biết chia sẻ cùng ai.
- Lời của Thuý Vân đã tạo một tình huống, cơ hội tự nhiên cho Thuý Kiều kể chuyện, bày tỏ nỗi lòng.
- 'Thuý Kiều được lời như cởi tấm lòng, mạnh bạo, tự tin để trao duyên, nhờ em thay mình lấy Kim Trọng.
- Thuý Vân chỉ ăn cẩn hỏi han rồi lặng lẽ, chăm chú lắng nghe (không ngắt lời chị), nhờ đó câu chuyện và ý nguyện “trao duyên” của Kiều được biểu đạt đầy đủ, trọn vẹn (đến mức nói xong nàng ngất đi).
Câu 4 (trang 41 sgk Ngữ văn 11 Tập 2 – Chân trời sáng tạo): Đọc kĩ lời thoại của Thuý Kiều và cho biết:
a. Lời thoại của Kiều trong văn bản là tự sự, biểu cảm hay kết hợp tự sự với biểu cảm?
b. Từ dòng thơ 741 đến dòng thơ 756, lời của Thuý Kiểu hướng đến ai; là đối thoại, độc thoại hay độc thoại nội tâm?
Trả lời:
a. Lời thoại của Kiều trong văn bản có yếu tố trữ tình và yếu tố tự sự.
b. Đoạn thơ từ dòng thơ 741 đến dòng thơ 756:
– Thuý Kiều đang nói với Thuý Vân mà như đang nói với Kim Trọng (đối thoại với người nghe vắng mặt, vẽ thực chất cũng gần như độc thoại): Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
– Thuý Kiều đang nói Kim Trọng mà như đang nói với chính mình (độc thoại trong khi đối thoại): Phận sao phận bạc như vôi, Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
– Thuý Kiều đang nói với bản thân rồi lại đột nhiên nói vọng tới Kim Trọng (đối thoại mà như độc thoại): Ơi Kim Lang! Hơi Kim Lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
=> Cuối cuộc “trao duyên, dường như Thuý Kiều đã quên đi Thuý Văn đang trước mặt để chỉ nghĩ đến Kim Trọng và sự mất mát lớn lao của bản thân. Lời thoại cho thấy tâm trạng phức tạp của Thúy Kiều trong cuộc trao duyên.
Câu 5 (trang 41 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2): Chỉ ra sự thay đổi trong tâm trạng của Thuý Kiều trước, trong và sau khi trao kỉ vật cho Thuý Vân.
Trả lời:
Tâm trạng của Thúy Kiều |
|
Trước khi trao kỉ vật |
- Một mình đắm chìm trong trạng thái bối rối, thao thức, dằn vặt cao độ: Nỗi riêng riêng những bàn hoàn Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn. - Khi cơ hội đến từ lời “hỏi han” ân cần của Thuý Vân, Thuý Kiều trước hết nói đến sự khó xử của mình: Hở môi ra cũng thẹn thùng/ Để lòng thì phụ tấm lòng với ai; sau đó là lời cậy nhờ tha thiết: Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em... |
Khi trao kỉ vật |
- Thuý Kiều nói rõ từng thứ một: chiếc vành; bức tờ mây; phím đàn; mảnh hương nguyền ... Đó đều là những thứ vô cùng quý giá đối với Kiều, nhưng đã trao duyên thì đành phải trao kỉ vật làm tin. - Thuý Kiều đã phải vượt lên trên sự dằn vặt, lưu luyến, tiếc nuối khi dùng đến các từ ngữ chỉ kỷ vật như “của chung” (Duyên này thì giữ vật này của chung), “ngày xưa” (Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa); trong lời nói với Thuý Vân, nàng hình dung mai sau mình trở về như một hồn ma trong gió và cầu xin một niềm cảm thương, một ân huệ khiêm nhường nhất: Dạ đài cách mặt khuất lời/ Rảy xin chén nước cho người thác oan. |
Sau khi trao kỉ vật |
- Trao xong kỉ vật, Kiểu càng nghĩ nhiều đến Kim Trọng và tình yêu; ân tình nàng dành cho Kim Trọng cũng không sao kể xiết nên đã bái biệt bằng “trăm nghìn... lạy” ... - Chợt nghĩ đến phận mình, nàng lâm vào trạng thái tột cùng đau khổ, dằn vặt trước sự thật phũ phàng, mất mát không thể bù đắp (Phận sao phận bạc như vôi/ Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng). Rồi nàng nức nở gọi tên Kim Trọng và nói lời vĩnh biệt xót xa: Ôi Kim Lang Hỡi Kim Lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!. |
Câu 6 (trang 41 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2): Xác định chủ đề của văn bản Trao duyên và cho biết, phần văn bản này có vai trò như thế nào trong việc góp phần thể hiện chủ đề của Truyện Kiều.
Trả lời:
- Chủ đề: Lời nói, tâm trạng, cảm xúc của Thuý Kiều khi thuyết phục Thuý Vân thay mình lấy Kim Trọng.
- Vai trò của VB Trao duyên: Nếu xem chủ đề chung của Truyện Kiều là tiếng kêu đau thương về cuộc đời ba chìm bảy nổi của nàng Kiểu thì Trao duyên là tiếng kêu trước nỗi đau đầu đời của nàng. Nỗi đau này kéo theo nhiều nỗi đau khác trong suốt mười lăm năm lưu lạc của Kiều.
* Bài tập sáng tạo (trang 41 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2): Vẽ một bức tranh hay dựng một hoạt cảnh sân khấu hóa về cuộc trao duyên.