Viết đoạn văn cảm nghĩ về 1 chi tiết em thấy ấn tượng nhất trong truyện. (10 mẫu)
Câu hỏi:
Trả lời:
Đoạn văn tham khảo: Mẫu 1
“Con hổ có nghĩa” không chỉ có một câu chuyện mà nhiều câu chuyện, giúp cho văn bản trở nên đáng tin hơn, về một loài vật hung dữ nhưng lại rất có tình nghĩa. Chi tiết cuối truyện khiến em vô cùng ấn tượng là khi nhiều năm sau, bác tiều qua đời khi ấy, con hổ vẫn còn nhớ và có tình có nghĩa. Con hổ đến viếng, thể hiện lòng thương mến, xót xa đối với ân nhân đã khuất, ngày giỗ lại nhớ mang các con thú đến để ở ngoài cửa trong mấy chục năm liền thể hiện tình cảm vững bền, khắc cốt ghi tâm ơn nghĩa của ân nhân với mình. Tiếng gầm của hai con hổ ở phần cuối mỗi câu chuyện thể hiện sự cảm ơn và chào tiễn biệt của con hổ đối với ân nhân của mình. Đến loài vật tưởng như hung dữ, đáng sợ như vẫn sống có nghĩa thì con người càng phải sống có nghĩa nhiều hơn.
Đoạn văn tham khảo: Mẫu 2
Chi tiết em thấy ấn tượng nhất trong truyện là chi tiết hổ đực một chân trước ôm bà đỡ Trần chạy như bay vào rừng, gặp bụi rậm gai góc thì dùng một chân rẽ lối. Chi tiết này cho thấy hổ đực đang rất lo cho hổ cái, nên phải chạy như bay, nhưng không vì thế mà hổ đực quên đi sự an toàn của bà đỡ Trần. Hổ đực ôm bà đỡ Trần và rẽ lối khi gặp bụi rậm cho thấy nó cũng rất quan tâm đến an nguy của bà, coi trọng bà.
Đoạn văn tham khảo: Mẫu 3
Sau khi đọc văn bản “Con hổ có nghĩa”, em càm nhận được rất nhiều chi tiết thú vị và ý nghĩa trong những câu chuyện nhỏ. Tiêu biểu phải kể đến hình ảnh hổ đực một chân trước ôm bà đỡ Trần chạy như bay vào rừng, gặp bụi rậm gai góc thì dùng một chân rẽ lối. Một chú hổ cũng biết lo lắng, nên phải chạy như bay, nhưng không vì thế mà hổ đực quên đi sự an toàn của bà đỡ Trần. Con hổ đực vừa ôm vừa rẽ lối khi gặp bụi rậm cho thấy nó cũng rất quan tâm đến an nguy của bà, coi trọng bà.
Đoạn văn tham khảo: Mẫu 4
Con hổ có nghĩa nói về chuyện bà đỡ Trần và bác tiều phu gặp hổ, và đã được hổ đền ơn đáp nghĩa. Truyện đề cao đạo lí ân nghĩa thuỷ chung ở đời. Chi tiết mà em ấn tượng nhất là chi tiết hổ đền ơn đáp nghĩa bác tiều phu ở câu chuyện thứ hai. Dù bác tiều còn sống hay đã mất, con hổ vẫn luôn nhớ và đem thức ăn đến cho bác. Cái đáng quý nhất ở chi tiết này chính là lòng biết ơn của con hổ. Thật cảm động và đáng khâm phục biết bao trước hành động của con hổ. Trong tâm khảm của con hổ, hình ảnh vị ân nhân đã cứu sống mình là không bao giờ phai nhạt.
Đoạn văn tham khảo: Mẫu 5
Chi tiết em thấy ấn tượng nhất là lúc sắp chôn bác tiều phu, con hổ dũng mãnh tiến đến trước mộ. Mọi người xung quanh đều rất khiếp đảm con vật hung dữ nhưng nó vẫn bình tĩnh tiến lại gần mộ để nói lời tạm biệt cuối cùng với người đã cứu giúp mình. Từ đó, thể hiện một cách sâu sắc việc chúng ta luôn luôn cần ghi nhớ và biết ơn những người đã cứu giúp chúng ta những lúc khó khăn.
Đoạn văn tham khảo: Mẫu 6
Con Hổ có Nghĩa là truyện ngụ ngôn được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, nói về tấm lòng nhân nghĩa của con hổ đã cứu giúp nhưng người đang lâm vào tình trạng nguy kịch.
Con hổ có nghĩa là 1 câu truyện có những tình huống rất đặc sắc thu hút nhiều độc giả quan tâm. Đoạn thứ nhất là câu chuyện giữa hổ và bà đỡ Trần ở huyện Đông Triều. Hổ đực đền ơn mười lạng bạc vì bà đỡ Trần đã cứu vợ con nó. Số bạc ấy đã giúp bà sống qua năm mất mùa đói kém. Hình ảnh hổ đực mang bóng dáng hình ảnh con người. Nó mang nhiều phẩm chất cao quý của con người. Nó không chỉ biết đền ơn đáp nghĩa với ân nhân mà nó còn có nhiều biểu hiện đáng quý: hết lòng với hổ cái trong lúc sinh đẻ, vui mừng khi có con, lễ phép, lưu luyến trong phút chia tay ân nhân…
Một loài vật hung dữ nhưng dưới ngòi bút miêu tả của tác giả con hổ hiện lên thật đáng trân trọng. Tác giả đã nhân hóa những phẩm chất trong con người thành những phẩm chất trong con hổ, một con hổ có tình có nghĩa. Con vật cũng như con người, dưới ngòi bút sắc sảo của tác giả nó đã trở thành những phẩm chất đáng quý để nhiều người phải học tập theo. Câu chuyện thứ nhất: Hổ đực nhờ bà đỡ Trần đã đẻ cho hổ cái. Bà đỡ Trần nhà ở huyện Đông Triều, nổi tiếng đỡ đẻ mát tay vì vậy một đêm hổ đực đã đến nhà và nhờ bà ấy đỡ đẻ cho hổ cái, bà đỡ đẻ xong hổ đực trả ơn bà Hổ đực trả ơn bà mười lạng bạc, sau này nhờ số bạc đó, bà đỡ Trần sống qua cảnh mất mùa đói kém.
Đoạn thứ hai kể về chuyện đã xảy ra giữa hổ trán trắng và người kiếm củi ở huyện Lạng Giang. Hổ bị hóc xương, không thể nào lấy ra được. Nó đau đớn giãy giụa làm cỏ cây nghiêng ngả. Bác tiều phu đã giúp hổ lấy khúc xương ra khỏi họng. Hổ đền ơn đáp nghĩa bác tiều. Hơn mười năm sau, bác tiều qua đời, hổ đến bên quan tài tỏ lòng thương tiếc.
Sau đó, mỗi năm đến ngày giỗ bác, hổ lại đem dê hoặc lợn rừng đến để trước cửa nhà. Lòng biết ơn của hổ thật đáng quý, Bác Tiều Phu đã cứu giúp cho sự sống của Hổ lúc hoạn nạn vì vậy Hổ đã hết lòng cảm ơn và đền đáp ân huệ của mình với bác Tiều Phu, một tấm lòng đền đáp đáng quý của Hổ đã giúp cho chúng ta thấy được những loài vật cũng có những phẩm chất đáng quý của con người cũng biết ơn và biết trân trọng những tình cảm của con người đối với mình. Chỉ với 2 hành động của 2 con Hổ đó chúng ta nhận thấy lòng biết ơn – điều cốt lõi trong đạo làm người đã xuất phát trong động vật, động vật cũng như con người đều biết đền đáp những ân huệ cho những người đã cứu giúp mình. Đối với câu chuyện thứ nhất khi bà đỡ Trần giúp cho hổ cái được mẹ tròn con vuông, sau những phút mừng rỡ đùa giỡn với con, hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc đưa biếu bà Trần.
Hành động đền ơn đáp nghĩa của con Hổ diễn ra ngay sau khi Bà đỡ đỡ xong cho Hổ cái. Hổ đền ơn cho Bà Đỡ rất nhiều hẳn hơn mười lạng bạc. Hổ tuy là một con vật nhưng lại biết cư xử có nghĩa có tình với người đã giúp gia đình nó vượt qua cơn hoạn nạn. Khi tiễn Bà Đỡ Trần về, hổ đã cúi đầu vẫy đuôi. Đến khi bà đỡ Trần đi khá xa, nó gầm lên một tiếng rồi bỏ đi.
Truyện Con hổ có nghĩa là bài học giáo huấn đạo đức của con người bằng những hành động tình nghĩa của Hổ, qua đó nhắc nhở con người cần sống tình nghĩa và biết đền đáp những ân huệ đã giúp đỡ mình.
Đoạn văn tham khảo: Mẫu 7
Truyện ngắn Con hổ có nghĩa là câu chuyện cảm động về bài học đền ơn đáp nghĩa chốn nhân sinh. Qua đó ta có thể thấy, dù là người hay vật thì đừng bao giờ quên ơn những người đã giúp đỡ mình.
Con hổ có nghĩa nói về chuyện bà đỡ Trần và bác tiều phu gặp hổ, và đã được hổ đền ơn đáp nghĩa. Truyện đề cao đạo lí ân nghĩa thuỷ chung ở đời. Truyện gồm có hai phần, phần nào cũng tinh giản mà kì thú, ý nghĩa.
Ở đây ta nói về mẩu chuyện bà đỡ Trần gặp hổ. Tình huống li kì hồi hộp: đêm, nghe tiếng gõ cửa, bà đỡ ra mở cửa, rồi bị con hổ lao tới cõng bà đi. Bị hổ bắt làm sao mà sống được? Bà đỡ, ban đầu sợ đến chết khiếp. Hổ dùng một chân ôm lấy bà chạy như bay, hễ gặp bụi rậm, gai góc thì dùng tay rẽ lối chạy vào rừng sâu. Phải chăng hổ bắt được mồi, nên vội vã tha mồi về hang?. Nhưng cái cử chỉ một chân ôm lấy bà, một tay rẽ lối của hổ thì có vẻ như nương nhẹ, cẩn trọng? Một tình tiết hồi hộp, hấp dẫn.
Cảnh thứ hai cũng đầy kịch tính. Bà đỡ nhìn thấy hổ cái đang lăn lộn cào đất, bà đỡ run sợ không dám nhúc nhích. Bà sợ lắm vì tưởng là hổ định ăn thịt mình. Hổ đực dùng cử chỉ để thay lời nói. Nó nhỏ nước mắt, thương hổ cái lắm. Nó "cầm tay bà nhìn hổ cái" như kêu van, như xin được cứu giúp. Người và hổ đã tương tri, đã biết cảnh ngộ nhau, biết tấm lòng của nhau. Bà đỡ rất cần mẫn, có tay nghề giỏi, bà chỉ nhìn bụng hổ cái như có cái gì động đậy, thế là bà biết ngay hổ cái sắp đẻ. Thật nhân đức, bà đỡ hoà thuốc với nước suối cho hổ cái uống, bà còn dán xoa bụng cho hổ. Cử chỉ của bà đầy tình thương. Đã mấy ai trong thiên hạ dám đưa tay xoa bóp bụng hổ. Với bà đỡ Trần thì hổ cái là một sản phụ, đang đau đẻ, cần giúp đỡ để cứu cả mẹ lẫn con.
Cảnh thứ ba là cảnh hổ cái đẻ con và hổ đực đưa tiễn bà đỡ. Hổ đực rất tình cảm và có nghĩa. Nó vui mừng đùa giỡn với con. Nó quỳ xuống bên một gốc cây, lấy tay đào lên một cục bạc để tặng bà đỡ. Nó đứng dậy đi, quay nhìn bà để ra hiệu đưa tiễn bà về. Nghe bà đỡ nói: Xin chúa rừng quay về, nó cúi đầu vẫy đuôi, rồi gầm lên một tiếng. Cảnh tiễn biệt đầy lưu luyến và sâu nặng tình nghĩa biết bao!.
Câu chuyện thật hay, thật hồi hộp cảm động. Người đỡ đẻ, giúp hổ cái mẹ tròn con vuông. Hổ đền ơn người một cục bạc, nhờ món quà ấy mà bà đỡ sống qua được năm mất mùa đói kém. Chuyện cũng là chuyện người. Bài học đền ơn đáp nghĩa thật kỳ thú mà vô cùng ý nghĩa, cảm động.
Đoạn văn tham khảo: Mẫu 8
Con hổ có nghĩa là câu chuyện cảm động về loài hổ. Dù là loài vật hung dữ nhưng hổ có tấm lòng nhân nghĩa. Mượn câu chuyện loài vật để nói chuyện loài người, tác giả nhằm đề cao ân nghĩa trong đạo làm người.
Ở câu chuyện thứ nhất, con hổ lao tới nhà bà đỡ và cõng bà chạy như bay trong đêm tối, hành động đó khiến ta liên tưởng hổ đang săn bắt con mồi. Nhưng khi gặp phải bụi rậm thì hổ dùng chân trước rẽ lối, hành động đó thể hiện sự nương nhẹ, cẩn trọng để tránh cho bà Trần khỏi những vết thương. Sự mâu thuẫn trong hành động của con hổ tạo nên tính li kì, hồi hộp cho truyện. Và khi tới nơi, bà đỡ thấy con hổ cái đang lăn lộn, cào đất, bà cho rằng hổ định ăn thịt mình nên rất sợ hãi. Rồi giọt nước mắt của hổ đực nhìn bà khẩn khoản và bằng kinh nghiệm của mình, bà hiểu ra rằng hổ cái sắp sinh con.
Bà đã hòa thuốc với nước suối cho hổ uống, xoa bóp bụng khiến nó trấn tĩnh hơ trong cơn đau đớn. Hành động nhẹ nhàng, chăm sóc chu đáo của bà chính là tấm lòng nhân đức của người thầy thuốc trước hoàn cảnh nguy nan, dù bà biết hổ là loài vật hung dữ. Xóa nhòa mọi khoảng cách và nỗi sợ hãi, người và hổ đã đồng cảm, thấu hiểu tình cảnh khó khăn. Và để trả ơn nghĩa cứu giúp của bà đỡ, hổ đực đã tặng bà đỡ một cục bạc và tiễn đưa bà chu đáo.
Cảnh tiễn biệt đầy lưu luyến và tình nghĩa biết bao! Qua đó, ta thấy được tấm lòng của hổ, dù chẳng thể nói lên tiếng cảm ơn với người giúp mình khi hoạn nạn nhưng bằng những cử chỉ, hành động đã nói lên tấm lòng biết ơn của nó. Không những vậy, hổ còn là con vật vô cùng tình cảm khi lo lắng cho hổ cái sắp sinh và hành động đùa giỡn với con mình. Tấm lòng yêu thương và ơn nghĩa của hổ thật khiến chúng ta trân trọng và cảm động.
Ở câu chuyện thứ hai là con hổ trong hoàn cảnh hoạn nạn, vì mắc khúc xương mà hổ vật lộn, máu me, nhớt dãi trào ra, hổ càng móc khúc xương thì nó càng vào sâu hơn. Đứng trước hoàn cảnh nguy nan đó, bác tiều phu đã mạnh bạo cứu hổ và đùa rằng “hễ được miếng gì lạ thì nhớ nhau nhé”. Lời nói vui ấy nhưng hổ đã khắc sâu trong tâm trí, biết ơn người đã cứu mình trước cái chết cận kề. Mang tấm lòng “uống nước nhớ nguồn” đó mà mỗi khi kiếm được con mồi, hổ đều mang phần đến cho bác. Khi bác mất, hổ đã đến mộ để tiễn biệt lần cuối và đến những lần giỗ hàng năm, nó vẫn nhớ đến công ơn người cứu mình. Nhớ ơn cứu mạng, trong tâm khảm hồ trán trắng, hình ảnh vị ân nhân đã cứu sống mình không bao giờ phai nhạt. Tiếng gầm đau thương khi ân nhân sang thế giới bên kia như lời tiễn biệt cuối cùng, niềm tiếc thương vô hạn với người đã khuất.
Hai câu chuyện kể với nhiều chi tiết li kì, tuy là loài thú dữ nhưng chúng có tấm lòng ân nghĩa, luôn biết ơn và trả ơn với người đã giúp đỡ mình qua cơn hoạn nạn. Từ câu chuyện của loài hổ đã nhắc nhở mỗi chúng ta phải luôn giữ trọn đạo hiếu, sống có tình có nghĩa. Đó là truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam.
Đoạn văn tham khảo: Mẫu 9
Trong nền văn học nước ta, cũng như nhiều nước trên thế giới, song song với các tác phẩm dân gian truyền miệng, có các tác phẩm do những trí thức tài danh sáng tác bằng chữ viết. Ở Việt Nam, văn học viết xuất hiện sớm nhất trong thời kì trung đại, thời kì lịch sử tính từ thế kỷ X đến cuối thế kỉ XIX. Do đó, cùng với một số áng văn xuôi dân gian đặc sắc như truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười,… chúng ta được thưởng thức một số truyện trung đại cũng khá đặc sắc.
Truyện trung đại Việt Nam thường được viết bằng chữ Hán, có nội dung phong phú và thường mang tính chất giáo huấn, có cách viết gọn gàng, đơn giản hơn truyện hiện đại. Tuy vậy, mỗi truyện đều có cốt truyện, có lời kể của tác giả, có nhân vật hành động và nói năng theo những tình huống, chi tiết khá hấp dẫn. Truyện Con hổ có nghĩa của Vũ Trinh trong tập Lan Trì kiến văn lục do Hoàng Hưng dịch là một áng văn xuôi như thế.
Điều thú vị của truyện này là tác giả không kể chuyện con người mà kể về hai con hổ, hai chúa sơn lâm. Nhà văn đã dùng nghệ thuật nhân cách hoá với ngòi bút vừa hiện thực vừa pha chút lãng mạn, cường điệu. Kể chuyện hổ, nhưng để nói chuyện người. Nói chính xác, đây là câu chuyên về những con ác thú nhưng không độc ác, trái lại rất hiền lành và mang những đức tính tốt đẹp của con người.
Chuyện về vị chúa rừng ở Đông Triều. Vị chúa rừng – ông hổ, ông ba mươi, con cọp này xuất hiện ở đầu truyện khiến người đọc sửng sốt, hãi hùng giống sự hãi hùng của bà đỡ Trần khi bị “hổ lao tới cõng đi… ôm lấy… chạy như bay… vào rừng …”. Ta tưởng hổ sẽ ăn thịt bà đỡ. Hoá ra không phải thế. Đó là cách “ông chồng” đi đón thầy thuốc về nhà đỡ đẻ cho “vợ”. Đây là “ông chồng” hổ nên đã hành động theo kiểu hổ… như thế. Song “ông” hổ này rất giàu tình cảm và có tấm lòng nhân nghĩa đáng khen.
“Ông ta” biết “cầm tay” bà đỡ, rồi “nhìn hổ cái nhỏ nước mắt” vừa muốn cầu cứu bà đỡ vừa cảm thông thương xót “bà vợ” hổ đang “lăn lộn, cào đất”, đau đẻ. Sau khi bà Trần đã đỡ cho hổ vợ, hổ con ra đời, hổ đực biết “mừng rỡ, đùa giỡn với con” như một người đàn ông hạnh phúc nhất. Ngòi bút kể chuyện của tác giả khá tinh tế. Con ác thú bỗng trở thành một người hiền lành, mang tính cách của con người.
Tính người của hổ biểu hiện rõ nhất, đẹp nhất là khi thấy vợ được mẹ tròn con vuông, đã “quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc” tặng bà đỡ Trần. Khi dẫn bà đỡ – ân nhân của gia đình, vị chúa rừng ấy còn biết “cúi đầu, vẫy đuôi làm ra vẻ tiễn biệt”. Nhờ số bạc hổ cho, bà đỡ Trần đã vượt qua được năm đói kém, mất mùa. Từ đầu đến cuối truyện, con hổ không nói một câu, một lời nào, là hổ thì sao nói được tiếng người ! Nhưng qua cử chỉ, nét mặt, chúng ta thấy con hổ ấy đã mang nhiều tính cách của người, ứng xử với bà đỡ Trần y như cách con người ứng xử với nhau. Là ác thú, vị chúa rừng Đông Triều có trái tim con người, biết thương vợ, biết đền ơn, đáp nghĩa người giúp đỡ mình qua khỏi việc khó khăn.
Chuyện về con hổ trán trắng ở Lạng Giang. Câu chuyện này mở đầu khác hẳn với chuyện về vị chúa rừng ở Đông Triều. Không phải là việc hổ cõng người mà là người nhìn thấy hổ. Bác tiều phu ở Lạng Giang nhìn thấy một con hổ trán trắng đang “cào bới đất, nhảy lên, vật xuống, thỉnh thoảng lấy chân móc họng, mở miệng nhe cái răng, máu me, nhớt dãi trào ra”. Cảnh tượng thật đáng kinh sợ. Nếu là người nhút nhát, chắc bác tiều phu sẽ bỏ chạy. Vậy mà bác lại nhanh nhẹn trèo, lên cây kêu lên : “Cổ họng ngươi đau phải không, đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương ra cho”. Kết quả là bác tiều phu dã lấy được một chiếc xương bò to ra khỏi họng con hổ, cứu con hổ thoát một tai nạn nguy hiểm. Hành động ấy của bác mang tình người đẹp đẽ. Đáp lại, con hổ thoát nạn đã đối xử với bác cũng đậm chất… người.
Hổ mãi ghi nhớ ơn cứu mạng của bác. Nó mang thịt nai tới cửa nhà bác, tặng bác, Khi bác tiều phu qua đời, hổ tới “dụi đầu vào quan tài, gầm lên, chạy quanh quan tài…” như khóc thương, nghiêng mình vĩnh biệt người thân, hay bè bạn. Không chỉ có thế, hằng năm “mỗi dịp ngày giỗ bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa nhà bác” như tỏ tấm lòng tưởng nhớ, biện chút lễ mọn cúng tế người quá cố. Cách cư xử ấy của con hổ đúng là của một người chịu ơn và không bao giờ quên ơn, tìm mọi cách đền ơn, đáp nghĩa với ân nhân. Tuy là một ác thú, con hổ trán trắng ở Lạng Giang, mang suy nghĩ và đã hành động như con người, ác thú… mang tính người. Thật kì lạ ! Kể chuyện con hổ thứ hai này, tác giả đã xây dựng được những chi tiết nghệ thuật khác với chuyên con hổ thứ nhất. Đó là việc hổ vùng vẫy, quằn quại khi hóc xương, việc bác tiều thông minh, nhanh nhẹn cứu hổ, viộc hổ đền ơn đáp nghĩa ân nhân,… Do đó, càng về cuối, tác phẩm càng hấp dẫn.
So sánh mức độ thể hiện cái “nghĩa” của hai con hổ, ta thấy rõ cái nghĩa ấy tuy giống nhau nhưng không trùng lặp mà được nâng cấp. Vị chúa rừng ở Đông Triều trả ơn một lần là xong. Còn con hổ trán trắng ở Lạng Giang đền ơn mãi, lúc ân nhân sống và cả lúc ân nhân qua đời. Câu chuyên ơn nghĩa thật đa dạng, kể mãi cũng không cùng. Chủ đề của tác phẩm càng về cuối càng rõ nét, tình huống truyện càng về cuối càng hấp dẫn.
Tóm lại, Con hổ có nghĩa thuộc loại truyện hư cấu, trong đó dùng một biện pháp nghệ thuật quen thuộc là mượn truyện loài vật để nói chuyện con người, nhằm đề cao ân nghĩa trong đạo làm người. Nếu suy ngẫm sâu hơn chút nữa, ta còn thấy một hàm ý khá tinh tế của tác giả. Nhà nho Vũ Trinh không trực tiếp viết về chuyện con người trả nghĩa cho nhau mà viết chuyện hổ đáp nghĩa đối với người. Trong thực tế, chúng ta vẫn thấy có những con vật rất gắn bó với con người. Vì vậy, cụ Phan Bội Châu – một chí sĩ cách mạng đầu thế kỷ XX đã sáng tác mấy câu văn độc đáo ca ngợi một con chó có nghĩa. Ta hãy đọc những câu văn ấy trong Bia con Vá : “Vì có dũng, nên liều chết phấn đấu ; vì có nghĩa, nên trung thành với chủ.
Nói thời dễ, làm thiột khó, người còn vậy huống gì chó. Ôi con Vá này, đủ hai đức đó. Há như ai kia, mặt người lòng thú. Nghĩ thế mà đau, dựng bia mộ chó”. Trở lại với truyện Con hổ có nghĩa, chúng ta hiểu rõ sau những lời kể chuyện vé hai con hổ, như thì thầm tiếng nói của tác giả : con vật, con ác thú còn có nghĩa như thế, huống nữa là con người. Tuy là ác thú, nhưng hổ vẫn có lúc gặp nạn cần người khác giúp đỡ. Trong trái tim hổ có tình người. Người độc ác vẫn có thể và có lúc trở nên hiền lành, giàu lòng nhân nghĩa… Biết bao ý hàm ẩn, bóng bẩy, sâu sắc thấp thoáng sau những từ, ngữ, câu văn của tác phẩm, đánh thức trí tuệ, lay động tâm hồn chúng ta.