So sánh chi tiết bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo và bát cháo cám trong tác phẩm Vợ nhặt năm 2023
So sánh chi tiết bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo và bát cháo cám trong tác phẩm Vợ nhặt năm 2023
Bài văn So sánh chi tiết bát cháo hành trong tác phẩm Chí Phèo và bát cháo cám trong tác phẩm Vợ nhặt gồm dàn ý chi tiết, bài văn phân tích mẫu được tuyển chọn từ các bài văn phân tích đạt điểm cao của học sinh trên cả nước giúp bạn đạt điểm cao trong bài kiểm tra, bài thi môn Ngữ văn 11.
Đề bài: So sánh bát cháo hành trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao và bát cháo cám trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Bài văn mẫu
Mỗi một tác phẩm văn học là một đứa con tinh thần của nhà văn chân chính. Trong tác phẩm ấy mỗi hình tượng và chi tiết nghệ thuật đều mang giá trị tư tưởng, tình cảm và dụng ý của tác giả. Nam Cao và Kim Lân là hai nhà văn xuất sắc trên thể loại truyện ngắn viết về người nông dân Việt Nam với tình cảm chân thành và lòng thương yêu vô bờ. Nếu Nam Cao thành công với kiệt tác “Chí Phèo” trong đó có chi tiết bát cháo hành tình người có nhiều ý nghĩa thì Kim Lân với tác phẩm “Vợ nhặt” có bát cháo cám tình thương để lại ấn tượng sâu sắc và nhiều suy ngẫm cho bạn đọc. Dù chỉ là hai chi tiết nghệ thuật xuất hiện ở gần cuối mỗi tác phẩm nhưng có giá trị to lớn, thể hiện quan điểm tư tưởng của nhà văn.
Trước tiên là bát cháo hành thị Nở dành cho Chí. Đây là bát cháo của tình người. Thị và Chí là hai con người cùng cực, thuộc tầng lớp dưới đáy cùng của xã hội. Một kẻ lưu manh trượt dài trên cái dốc tha hóa mất hết nhân hình lẫn nhân tính, một kẻ thuộc dòng giống con nhà mả hủi, xấu ma chê quỷ hờn lại còn nghèo và ngẩn ngơ. Họ bị xã hội ruồng bỏ, bị mọi người xa lánh, họ sống trong cô đơn cô độc giữa cuộc đời. Nhưng trong đêm tình ái ấy hai tâm hồn đồng điệu tìm về với nhau để làm thành “đôi lứa xứng đôi”. Tưởng rằng cuộc đời Chí chìm đắm trong bóng tối, u mê với men say và sống mãi bằng một nghề rạch mặt ăn vạ, cướp của giết người. Sự xuất hiện của thị cùng với bát cháo hành tình người ấy đã khiến hắn thức tỉnh, hồi sinh và khao khát muốn làm người lương thiện, muốn sống cuộc sống để yêu thương và được yêu thương. Bát cháo hành dù chỉ một lần được ăn nhưng nó đã cảm hóa được con quỷ dữ trong Chí. Tình thương, sự cảm thông ấy của thị đến một cách tự nhiên và bình dị nhất khiến Chí ngạc nhiên và xúc động giọt nước mắt con người đã chảy ra bởi đây là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. “Xưa nay nào hắn thấy ai tự nhiên cho hắn cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt hay cướp giật. Hẳn là phải làm cho người ta sợ.” Ấy thế mà giờ đây hắn hiền như cục đất, mắt hắn hình như ươn ướt. Hắn cảm động bởi sự chân thành của thị, bát cháo hành là hiện thân cho tình người ấm áp, là thuốc giải độc cho cơn sốt bất thường và chữa lành vết thương tâm hồn quặt què bấy lâu nay trong Chí. Chi tiết bát cháo hành trong tác phẩm “Chí Phèo” đẩy mấu chốt của câu chuyện phát triển lên một bước, là điều kiện để Nam Cao khắc họa tâm lí nhân vật, bộc lộ phần người bị vùi lấp trong Chí trỗi dậy, khám phá vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách đáng trân trọng của người đàn bà xấu xí là thị Nở. Qua đó nhà văn thể hiện tư tưởng nhân văn của mình luôn tin vào sự tốt đẹp trong con người lương thiện và khẳng định chỉ có tình người mới cảm hóa được tội ác.
Chi tiết bát cháo cám trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân cũng mang một nét đẹp và giá trị nghệ thuật riêng. Trong nạn đói Ất Dậu năm ấy khiến cho bao nhiêu người dân Việt Nam phải thiệt mạng vì giặc đói hoành hành. Hai mẹ con bà cụ Tứ và thị là những nạn nhân tiêu biểu nhưng cơ duyên và tình thương đã đưa họ về cùng một nhà. Hôm ấy trong bữa cơm đầu tiên đón dâu mới đáng lẽ người ta phải đãi nhau rượu thịt để chúc mừng hạnh phúc thì bà cụ Tứ lại đãi nàng dâu bát cháo cám. Nghe có vẻ nghịch lí nhưng trong hoàn cảnh đó là một “món sang” bởi “xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Bát cháo cám đắng chát nghẹn bứ ở cổ nhưng lại có ý nghĩa nhân sinh. Bởi đây là bát cháo của tình thương yêu những người trong gia đình dành cho nhau, bát cháo của những ngày đói khát khó khăn nhưng lại lóe lên hy vọng về một tương lai ngày mai. Bát cháo làm thay đổi tâm lí nhân vật khiến cho bà cụ Tứ_một bà mẹ yêu thương con dù nghèo đói nhưng vẫn cố gắng cưu mang thị, dù đã gần đất xa trời nhưng bà vẫn giàu niềm tin, hy vọng động viên đôi vợ chồng trẻ cố gắng làm ăn “không ai giàu ba họ không ai khó ba đời”, bát cháo khiến cô con dâu hiểu cho hoàn cảnh của gia đình mà thay đổi tính nết không còn “chỏn lỏn”, chua chát như trước. Bát cháo cám là hạnh phúc gia đình trong những ngày đói khát cùng cực.
Như vậy, hình ảnh hai bát cháo có nhiều nét tương đồng sâu sắc. Đó đều là bát cháo bình dị của nông thôn nghèo khó chẳng có thịt đậm hương thơm ngon ngọt mà chỉ là những thứ đơn giản nhất của người nhà nông thậm chí là còn không được nấu bằng gạo mà bằng cám. Tuy nhiên đó là bát cháo hiện thân của tình người đầy bao dung, ấm áp, bát cháo cho con người ta thêm hy vọng để sống có ích có ý nghĩa hơn. Bát cháo hành của thị cho Chí sự hồi sinh và hạnh phúc làm người, bát cháo cám của bà cụ Tứ cho đôi vợ chồng lời động viên chân thành và niềm tin để vượt qua những tháng ngày đói khát cùng cực.
Hình ảnh hai bát cháo mang giá trị hiện thực nghiệt ngã. Chí bị xã hội ruồng bỏ, “Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi khi hắn qua” chỉ có thị là thấy hắn hiền như đất, chỉ có thị là cảm thông và thấu hiểu cho hoàn cảnh của hắn để rồi chỉ một bát cháo và sự chân thành cảm hóa được Chí. Bát cháo cám là hiện hữu của cái nghèo, đói đến đáng sợ. Hiện thực qua hai bát cháo tố cáo xã hội đã đẩy người nông dân như Chí đến mức đường cùng của của thú dữ, đẩy những người nghèo khổ như gia đình Tràng rơi vào hoàn cảnh éo le bên bờ vực giữa sự sống và cái chết mong manh.
Từ giá trị hiện thực ấy mà làm nổi bật lên giá trị nhân đạo, tư tưởng, tình cảm của tác giả được thể hiện và gửi gắm thông điệp đến bạn đọc. Bát cháo hành minh chứng cho sức mạnh của tình người, Nam Cao luôn tin vào giá trị tốt đẹp của con người không bao giờ bị mất đi mà chỉ cần có cơ hội lại trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt. Bát cháo cám cho ta hy vọng dù đứng bên ranh giới sống chết nhưng con người ta vẫn luôn có niềm tin, động viên lẫn nhau cùng vượt qua khó khăn làm nên điều khác biệt khi cùng viết về người nông dân Kim Lân đã từng nói: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người." Dù chỉ xuất hiện ở cuối tác phẩm nhưng chi tiết hai bát cháo rất có ý nghĩa, để lại sự suy tư và ám ảnh cho độc giả.
Mỗi một nhà văn ở một giai đoạn khác nhau nên có cái nhìn và quan điểm khác nhau khi đối diện với hiện thực. Nam Cao viết “Chí Phèo” trước cách mạng tháng Tám nên cái nhìn của ông đối với người nông dân ở giai đoạn này là bế tắc, tuyệt vọng nên kết thúc truyện là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, Chí đã cầm dao đâm chết Bá Kiến và tự sát, thị nhìn xuống cái bụng của mình và hình ảnh cái lò gạch cũ lại thoáng hiện lên. Kim Lân thì lại khác tác phẩm “Vợ nhặt” được viết ngay sau cách mạng tháng Tám thành công nên người nông dân trong truyện luôn có niềm tin vào cuộc sống mới, đặc biệt là kết thúc nhà văn để hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới xuất hiện. Quan điểm tưởng khác nhau nên mới tạo ra sự khác biệt. Cùng viết về một đề tài là người nông dân nhưng trong mỗi tác phẩm người nông dân lại hiện lên khác nhau trong suy nghĩ cho thấy nét độc đáo riêng, thể hiện phong cách văn chương của mỗi nhà văn.
Như vậy chi tiết bát cháo hành trong “Chí Phèo” của Nam Cao và bát cháo cám trong “Vợ nhặt” của Kim Lân có nhiều giá trị về cả nội dung và nghệ thuật làm nên sự thành công của tác phẩm có đóng góp cho nền văn học dân tộc. Hai bát cháo mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc để lại ấn tượng độc đáo trong trong lòng độc giả. Gập lại trang sách nhưng ắt hẳn chúng ta không thể quên bát cháo hành tình người và bát cháo cám tình thương đầy suy ngẫm, trăn trở cho giá trị sống, giá trị làm người khi có mặt ở trên đời.