SBT Ngữ văn 12 Thực thi công lí - Cánh diều
Haylamdo biên soạn và sưu tầm lời giải sách bài tập Văn 12 Thực thi công lí sách Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 12.
- Câu 1 trang 19 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 2 trang 20 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 3 trang 20 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 4 trang 20 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 5 trang 20 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 6 trang 21 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 7 trang 21 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 8 trang 21 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
- Câu 9 trang 21 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1
Giải SBT Ngữ văn 12 Thực thi công lí - Cánh diều
Nhân vật Poóc-xi-a |
Nhân vật Sai-lốc |
Mẫu: Thuyết phục Sa-lốc khoan hồng |
Mẫu: Đòi hỏi công lí và sự thi hành các điều khoản của văn khế |
…… |
…… |
Trả lời:
Nhân vật Poóc-xi-a |
Nhân vật Sai lốc |
Mẫu: Thuyết phục Sai-lốc khoan hồng |
Mẫu: Đòi hỏi công lí và sự thi hành các điều khoản của văn khế |
Từ chối lời đề nghị “làm việc sai trái nhỏ để nhằm một việc nhân nghĩa lớn” của Ba-xa-ni-ô. |
Ca tụng Poóc-xi-a là một Đa-ni-en.
|
Đề nghị cho xem vẫn khế và tiếp tục thuyết phục Sai lốc khoan hồng, nhận gấp ba số tiền và xé văn khế đi. |
Khăng khăng một mực yêu cầu theo đúng văn khế. |
Yêu cầu An-tô-ni-ô chuẩn bị đưa ngực ra để đón mũi dao của Sai-lốc, , khẳng định tờ văn khế phải được thi hành. |
Ca tụng Poóc-xi-a là quan tòa cao quý, ưu việt, ngay thẳng, sáng suốt và già dặn. |
Yêu cầu An-tô-ni-ô phanh ngực ra và hỏi cân để cân thịt. |
Nhắc lại lời trong văn khế và khẳng định đã mang sẵn cân. |
Yêu cầu Sai-lốc cho gọi một nhà phẫu thuật để băng bó vết thương cho An-tô-ni-ô sau khi thi hành án |
Không đồng ý vì văn khế không ghi
|
Tuyên bố xử cho Sai-lốc được quyền lấy một cân thịt ở trên ngực của An-tô-ni-ô |
Ca tụng quan toà công minh, nhắc An-tô-ni-ô chuẩn bị |
Tuyên bố Sai-lốc không được làm chảy một giọt máu nào của An-tô-ni-ô, nếu không toàn bộ tài sản của y sẽ bị tịch thu để sung công |
Xin nhận đền bù gấp ba số tiền |
Không đồng ý cho Sai-lốc nhận tiền, nhắc lại không được làm rỏ một giọt máu và tuyên bố thêm yêu cầu không được cắt ít hơn hay nhiều hơn một cân đúng, nếu không người cắt sẽ bị tử hình và tài sản bị tịch thu |
Xin nhận số tiền nợ |
Khẳng định Sai-lốc chỉ được duy nhất khoản phạt đền, không chấp nhận đề nghị xin nhận tiền nợ của Sai-lốc. |
Xin xoá nợ cho An-tô-ni-ô |
Tuyên bố Sai-lốc phạm tội có mưu đồ làm hại đến tính mạng của công dân thành Vơ-ni-dơ nên sẽ bị tịch thu tài sản, còn tính mạng thì do ngài Đại thống lĩnh quyết, yêu cầu Sai-lốc quỳ xuống để cầu xin Đại thống lĩnh mở lượng khoan hồng |
|
A. Sai-lốc đòi toà xử kiện theo đúng điều khoản độc ác được ghi trong tờ văn khế và Poóc-xi-a đã khiến Sai-lốc phải trả giá bằng chính các điều khoản của văn khế
B. Sai-lốc đòi toà xử kiện theo đúng các điều khoản của tờ văn khế độc ác và Poóc-xi-a đã tìm mọi cách để thuyết phục y thay đổi quyết định, nhận tiền bồi thường
C. Poóc-xi-a bí mật nhập vai quan toà để xử vụ kiện của Sai-lốc
D. An-tô-ni-ô và Ba-xa-ni-ô bị Sai-lốc kiện ra toà vì vi phạm điều khoản của văn khế
Trả lời:
Chọn đáp án: A. Sai-lốc đòi toà xử kiện theo đúng điều khoản độc ác được ghi trong tờ văn khế và Poóc-xi-a đã khiến Sai-lốc phải trả giá bằng chính các điều khoản của văn khế
Câu 3 trang 20 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Nhân vật nào trong văn bản là đối tượng của tiếng cười?
A. Poóc-xi-a
C. An-tô-ni-ô
B. Sai-lốc
D. Ba-xa-ni-ô
Trả lời:
Chọn đáp án: B. Sai-lốc
Câu 4 trang 20 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Phương án nào nêu đúng xung đột trong đoạn trích?
A. Xung đột giữa cái xấu với cái tốt
B. Xung đột giữa cái cao cả và cái thấp hèn
C. Xung đột giữa cái xấu và cái xấu
D. Xung đột giữa sự thật và giả dối
Trả lời:
Chọn đáp án: A. Xung đột giữa cái xấu với cái tốt
A |
|
B |
(1) Từ “Poóc-xi-a: Tên ông có phải là Sai-lốc không?” đến “Tôi khăng khăng một mực yêu cầu theo đúng văn khế”. |
|
a) Tấn công, luận tội Xuống nước, đầu hàng |
(2) Từ “An-tô-ni-ô: Tôi khẩn cầu toà tuyên án đi cho” đến “Nào, anh, chuẩn bị đi”. |
|
b) Thuyết phục - Phản đối |
(3) Từ”Poóc-xi-a: Khoan đã, chưa hết” đến hết. |
|
c) Chấp thuận – Tán thưởng |
|
|
d) Thăm dò – Lảng tránh |
Trả lời:
(1) – b, (2) – c, (3) – a.
Câu 6 trang 21 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Thủ pháp trào phúng nào được sử dụng trong văn bản?
A. Tạo tình huống nhầm lẫn trớ trêu
B. Sử dụng cách diễn đạt phi lô gích
C. Tạo đối thoại theo lối “ông nói gà, bà nói vịt”
D. Sử dụng lập luận của đối thủ để hạ gục đối thủ
Trả lời:
Chọn đáp án: D. Sử dụng lập luận của đối thủ để hạ gục đối thủ
Trả lời:
- Đó là tính cách tham lam, độc ác, chỉ vì tiền mà mất hết tính người, quyết dồn người khác vào con đường chết. Tính cách như vậy tất yếu phải chuốc lấy kết cục: tử chỗ đi thưa kiện, kết án, mưu mô đẩy người khác vào chỗ chết, đến chỗ bị kết tội, bị tịch thu hết gia sản và tính mạng của bản thân cũng có nguy cơ không giữ được. (Chú ý đến sự khăng khăng viện dẫn cam kết trong văn khế của lão, trơ trơ trước mọi thuyết phục về khoan hồng và lòng nhân từ; những lời ca tụng, lớn dương quan toà thể hiện sự hả hệ vì thoả mãn được mưu đồ thâm độc của bản thân, sự đầu hàng từng bước cho thấy hắn vẫn tham lam “cố đấm ăn xôi” như thế nào,...).
- Sai-lốc là nhân vật hài kịch bởi hắn là hiện thân của cái xấu, cái ác, là đối tượng của tiếng cười phê phán, lên án sự tham lam, độc ác, mất hết tính người.
- Nhân vật Sai-lốc được thể hiện qua thủ pháp tạo tình huống giàu kịch tính, gây ông đập lưng ông”, dùng lập luận, thủ đoạn của chính đối thủ để hạ gục đôi thủ.
a) “Chính bản chất của sự khoan hồng là không vâng theo áp lực; nó từ trên trời sa xuống như một trận mưa tốt lành; nó được trời ban phước hai lần: được ban phước trong kẻ ra ơn cũng như trong kẻ chịu ơn.” (Lời của Poóc-xi-a).
b) “ [...] tôi khẩn cầu các ngài: các ngài hãy bắt công lí phải nhượng bộ, nhân danh uy quyền của các ngài; các ngài hãy làm cái việc sai trái nhỏ đó để nhằm một việc nhân nghĩa rất lớn [...]” (Lời của Ba-xa-ni-ô).
c) “Không có quyền lực nào ở Vơ-ni-dơ có quyền thay đổi một sắc lệnh đã ban bố; làm như vậy sẽ tạo nên một tiền lệ, và vin vào cái gương đó, trăm nghìn sự nhũng lạm sẽ xúm lại làm hại nhà nước; không thể làm như thế được.” (Lời của Poóc-xi-a).
Trả lời:
- HS có thể đồng tình với quan điểm của quan toà về sự khoan hồng trong kiến a, về sự tuân thủ thượng tôn pháp luật trong ý kiến c. Để lí giải, HS cần làm rõ tác dụng của sự khoan hồng và tôn trọng luật pháp và những hệ luỵ, hậu quả nếu con người bất chấp luật pháp, hoặc không thể hiện sự khoan hồng đối với kẻ phạm tội.
- HS có thể bày tỏ sự không đồng tình với ý kiến b. Về mặt lí giải, có thể dựa trên ý kiến c. Lời của Ba-xa-ni-ô thể hiện sự cảm tính, có thể dẫn đến những tiền lệ nguy hiểm nếu như pháp luật bị bẻ cong,…
Câu 9 trang 21 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi ở bên dưới.
Ông Tây An Nam
(Trích)
* Giới thiệu về vở kịch “Ông Tây An Nam”: Gia đình Cưu Ông, Cựu Bà cho con trai là Lân sang Pháp du học đỗ bằng cử nhân. Nhưng Lân khinh bỉ giống nòi, quyết nhập làng Tây. Khi về nước, tàu vừa cập bến, y không nhận mẹ, còn vu cho bà là kẻ cắp để cảnh sát bắt vào bóp vì bà là “người bản xứ” đã dám nhận y là con. Y không về nhà ở mà thuê khách sạn vì ghê sợ sinh hoạt của người An Nam. Về thăm nhà, Cử Lân mang theo phiên dịch, y chỉ nói tiếng Pháp, sỉ mắng mọi người, kể cả bố mẹ của mình. Y oán cha mẹ vì đã sinh ra y là người bản xứ. Y chê cơm cha mẹ vì có “mùi An Nam”. Đồ ăn của y mọi thứ đều được đóng hộp mang từ Pháp sang, kể cả nước uống. Chỉ có không khí là y phải thở trên đất An Nam. Y tuyên bố: “Tổ quốc tôi là Đại Pháp, tôi người Đại Pháp”. Nhưng đến khi gặp Kim Ninh, con gái cụ Huấn, y đã đem lòng mê mẩn. Kim Ninh nhất định không chịu nói tiếng Pháp. Cử Lân buộc phải nói tiếng Việt, dọn về nhà ở, lấy lòng cha mẹ và cụ Huấn để cưới được Kim Ninh. Nhưng Kim Ninh đã có người yêu, lại khinh thường thói vong bản của Cử Lân nên từ chối thẳng thừng trước mặt mọi người. Bị bẽ mặt, Cử Lân tức giận, tự thấy mình điên rồ vì đã chốc lát tự ý trở lại làm “giống An Nam”. Hắn quát quân hầu : “Theo tao sang Pháp mà làm người Âu châu”.
Vở kịch gồm ba hồi, được hoàn thành vào năm 1930, in lần đầu năm 1931.
Sen IX
CỬ LÂN, KIM NINH (hai người cùng ngồi).
CỬ LÂN: (Ta đặc) Em ạ, anh xưa nay rất là hiểu rõ cái văn minh Âu Tây, hiểu đến nỗi như chui vào gan ruột người Âu Tây vậy. Bởi thế, anh biết rằng làm người An Nam xấu lắm. Không có cái gì khả bỉ bằng hai tiếng An Nam, An Nam, An Nam! Nghe nó tủn mủn, nhỏ mọn, hèn hạ, không sao mà nói được! Ở những nơi văn minh mà gọi nhau là An Nam tức là làm bia cho thiên hạ chửi. Vậy muốn cho người ta quý mình, trọng đãi mình trước hết ta không nên làm người Việt Nam nữa. Tây có câu: “Có đồng đẳng mới bình đẳng được”. Nghĩa là có không phải là người Việt Nam hay An Nam thì người ta đối đãi với mình coi như người quý quốc!
KIM NINH: Cho nên anh biết tiếng của Tổ quốc mà phải giả vờ làm không biết, có phải thế không?
CỬ LÂN: Thưa, không phải giả vờ cốt lấy oai mà thôi đâu. Anh là người Tây thì cái giả vờ ấy, tha thứ đi cho anh cũng được! Nhưng điều anh chủ tâm là làm cho tiệt cái hơi tiếng An Nam ở trong mồm anh đi. Nên không những anh không muốn nói tiếng Nam, nghe tiếng Nam, mà đến cái tư tưởng bằng cái óc Việt Nam anh cũng không muốn nữa! Ví dụ anh nhìn thấy cái này (trỏ bó hoa) tất phải nghĩ ngay nó là em xinh đẹp, yêu em, anh bật ngay ra : Je t’ aime chứ không muốn nhớ chi đến câu
“Tôi yêu mình” như trước nữa! Nói tóm lại là anh tư tưởng bằng chữ Tây nó quen đi rồi, cái óc anh biến hắn thành óc Tây rồi...
KIM NINH: Hừ! Nếu ai cũng như anh thì tiếng Việt Nam chẳng bao lâu mà mất!
CỬ LÂN: Quái! Từ hôm quen đến nay, anh gặp ai cũng là bênh vực cái tiếng An Nam này chầm chập? Người An Nam hủ lậu thật mà còn chậm tiến hoá không biết đến đâu? Anh hãy hỏi em có phải tiếng An Nam còn ngày nào thì người trên cái bán đảo Ấn Độ chi na này còn là An Nam ngần ấy, mà các người ấy đã An Nam thì mong sao văn minh người ta quý trọng mình? Hay anh hỏi em thế này cho ngắn: “Tiếng An Nam có hay ho gì không?”.
KIM NINH: Ý em thì hay, vì rằng nó là của riêng của giống nòi mình, mà đã là của riêng để phân biệt mình với người thì dầu có kém của người, mình cũng cho là hay.
CỬ LÂN: Câu em nói đó thuộc về nhu cảm. Cứ bình tĩnh mà nói, em tưởng tượng em là người giời, đứng tận trên tít đỉnh giời mà xét, tiếng Việt Nam có hay hay không?
KIM NINH: Hay!
CỬ LÂN: Hay làm sao?
KIM NINH: Nó dịu dàng êm ái, lên bổng xuống trầm như tiếng đàn và có ngũ âm lục thanh như năm cung sáu bực cây đàn, mà cung bực tức là năm dấu.
CỬ LÂN: Trời ơi! Thế mà hay! Hoạ chăng nó êm ái dịu dàng là bởi vì cái giọng dịu dàng êm ái của em nó tô điểm hộ. Yêu, yêu thế là cái gì? Gọi là aimer có tình tứ bao nhiêu không? Kim Ninh, Kim Ninh còn ra nghĩa lí gì? Nếu không có cái mồm hoa kia, đôi mắt đẹp chết người này thì nó có gợi cho anh được một mảnh tình nào không? Rành không nhé!
KIM NINH: Ấy thế mà em thì lại khác. Nghe mấy tiếng “Chàng Lân ơi” nó thanh thú hơn là “Mon cher Alphonse”!
CỬ LÂN: Bởi vậy, anh mới phải chiều em, phải dùng cái tiếng khổ này mà thưa với em xinh đẹp của anh rằng anh yêu, anh quý, anh thờ em vô hạn. Nhưng cũng xin em sớm tỉnh ngộ cho anh nhờ. Bỏ quách cái giống nòi An Nam đi, húi tóc ngắn, ăn mặc đầm, nói tiếng Tây, sang Tây mà ở bên ấy với anh mãi mãi, anh sẽ suốt đời ôm ẵm trên tay, em ạ, em với anh sẽ thêu dệt nên một cuộc đời như hoa như gấm, em nghĩ làm sao?
KIM NINH: Em chịu thôi anh ạ.
CỬ LÂN: Sao thế?
KIM NINH: Vì tấm lòng em nó rắn lắm, chưa thấy anh lay chuyển được tí nào?
CỬ LÂN: Thật không em?
KIM NINH: Thật.
CỬ LÂN: Thế em cho phép anh mời đi xơi cơm hôm nay vậy!
KIM NINH: Em cũng chịu thôi.
CỬ LÂN: Nhất định thế ư?
KIM NINH: Vâng.
CỬ LÂN: Anh chịu em là người khó tính!
KIM NINH: Không khó tính đâu anh. Thôi anh đi xơi cơm kẻo đói.
CỬ LÂN: Hay nói thế nào mà em bằng lòng thì xin dạy anh, để anh nói với em.
KIM NINH: Anh nói thế nào em cũng không bằng lòng đâu. Thôi anh xơi cơm đi.
CỬ LÂN: Sur?
KIM NINH: Chả thật thì bỡn hay sao?
CÚ LÂN: Bon! Adieu, mademoiselle.
KIM NINH: Người đâu mà dở ốm dở đau, dở cay dở nồng, thế mà thầy ta cứ dỗ ta lấy thì ta lấy làm sao?
(Ông Tây An Nam, Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000)
a) Tình huống của đoạn trích là gì?
A. Cử Lân giả vờ không biết tiếng An Nam để người Pháp coi mình như người “quý quốc”
B. Cử Lân sử dụng tiếng “ta đặc” để giải thích lí do muốn “tiệt cái hơi giống An Nam” và thuyết phục Kim Ninh “bỏ quách cái giống nòi An Nam”
C. Kim Ninh thuyết phục Cử Lân sử dụng tiếng Việt để giao tiếp vì tiếng Việt “dịu dàng êm ái, lên bổng xuống trầm như tiếng đàn”
D. Kim Ninh từ chối tình cảm của Cử Lân vì thấy “người đâu mà dở ốm dở đau, dở cay dở nồng”
b) Hình thức ngôn ngữ nào không xuất hiện trong đoạn trích?
A. Đối thoại
B. Chỉ dẫn sân khấu
C. Bàng thoại
D. Chêm xen các từ tiếng Pháp
c) Phương án nào dưới đây nêu đúng về xung đột trong đoạn trích?
A. Xung đột trong nội tâm của nhân vật Cử Lân
B. Xung đột trong nội tâm của nhân vật Kim Ninh
C. Xung đột giữa nhân vật Cử Lân, Kim Ninh và “giống nòi An Nam”
D. Xung đột giữa nhân vật Cử Lân và Kim Ninh
d) Để làm cho bản thân “tiệt cái hơi tiếng An Nam”, nhân vật Cử Lân đã làm gì?
(1) Không muốn nói tiếng An Nam, nghe tiếng An Nam
(2) Không muốn tư duy bằng tiếng An Nam để “óc biến hẳn thành óc Tây”
(3) Giả vờ không biết tiếng An Nam để “lấy oai”
(4) Sử dụng tiếng “ta đặc” để giao tiếp với Kim Ninh
A. (1), (2)
C. (1), (3)
B. (3), (4)
D. (2), (3)
e) Phương án nào nêu đúng về nhân vật Cử Lân trong đoạn trích?
A. Tây hoá, vong bản, khinh bỉ giống nòi
B. Đua đòi, lố lăng, bất hiếu
C. Giả dối, nịnh nọt, hèn nhát
D. Bất trung, bất nghĩa, bất tín
Trả lời:
a) Chọn đáp án: B. Cử Lân sử dụng tiếng “ta đặc” để giải thích lí do muốn “tiệt cái hơi giống An Nam” và thuyết phục Kim Ninh “bỏ quách cái giống nòi An Nam”
b) Chọn đáp án: C. Bàng thoại
c) Chọn đáp án: D. Xung đột giữa nhân vật Cử Lân và Kim Ninh
d) Chọn đáp án: A. (1), (2)
e) Chọn đáp án: A. Tây hoá, vong bản, khinh bỉ giống nòi.
Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 12 Bài 2: Hài kịch hay khác: