SBT Ngữ văn 12 Loạn đến nơi rồi - Cánh diều


Haylamdo biên soạn và sưu tầm lời giải sách bài tập Văn 12 Loạn đến nơi rồi sách Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 12.

Giải SBT Ngữ văn 12 Loạn đến nơi rồi - Cánh diều

Câu 1 trang 26 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Hãy nêu các sự việc chính của văn bản.

Trả lời:

Các sự việc chính của văn bản:

- Sau khi đi thăm đồng, ông Đoàn Xoa trở về nhà. Hướng, bí thư Đảng uỷ xã, đã ở nhà ông để nghe ngóng tình hình. Ông kể chuyện mình vờ hỏi thử bà con và yên tâm khi thấy tình hình quê hương vẫn vững vàng trong khi nhiều nơi “khoán chui” lung tung lắm. Mọi người yên lặng nhìn nhau.

- Bà Xoa vội bảo Mai ra nói Thông đừng vác bao đạm về nhà nhưng không kịp, bà Xoa nói dối chồng đó là người chuyển đạm cho hợp tác vào nhầm nhà.

- Thấy cụ Bản sang, ông Xoa tưởng cụ đến ăn xin nên bảo vợ san sẻ gói mì sợi và cơm nguội phơi khô mình vừa mang về. Ông Xoa trách bí thư Đảng uỷ xã để dân đói. Không ngờ cụ Bản nói mình đến là để mời gia đình ông Xoa sang ăn mừng nhà cụ đã lên được nếp nhà ngói năm gian. Ông Xoa ngạc nhiên. Cụ Bản thông báo cho ông Xoa biết cả làng ai cũng khá giả nhờ việc giao khoán.

- Ông Xoa nổi giận cho rằng tình hình “Loạn, loạn đến nơi rồi!”. Ông đến nhà bí thư Huyện uỷ để xác minh nhưng không gặp. Ông gọi điện cho Chủ tịch tỉnh cũng không được nên định vê ngay Trung ương báo cáo. Vợ bí thư Huyện uỷ tìm kế hoãn binh, nhờ ông và con gái ra biên mua mẻ tôm về làm bữa trưa.

- Ông Xoa bắt gặp cảnh thuỷ thủ mang cá tươi đi bán tự do theo giá chợ. Ông tức giận đòi mời chính quyền ra lập biên bản. Thuyền trưởng Quân xuất hiện và quyết liệt khẳng định việc làm của mình là chính đáng, phê phán ông Xoa là người duy tâm, trái ngược tự nhiên. Ông Đoàn Xoa đe doạ sẽ không cho qua chuyện này.

Câu 2 trang 26 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Phương án nào nêu đúng nhất tình huống của văn bản?

A. Mọi người bất ngờ, lo lắng và tìm cách giấu ông Đoàn Xoa về việc “khoán chui” của địa phương

B. Ông Đoàn Xoa về thăm quê và phát hiện ra sự việc “khoán chui” của địa phương mình

C. Cụ Bản và nhiều gia đình ở quê hương ông Đoàn Xoa đổi đời nhờ “khoán chui”

D. Ông Đoàn Xoa bị cụ Bản, thuyền trưởng Quân và mọi người thẳng thắn phê bình vì suy nghĩ duy ý chí, cứng nhắc, áp đặt

Trả lời:

Chọn đáp án: B. Ông Đoàn Xoa về thăm quê và phát hiện ra sự việc “khoán chui” của địa phương mình

Câu 3 trang 26 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Phương án nào dưới đây nêu đúng về xung đột trong văn bản?

A. Xung đột giữa ông Đoàn Xoa và thuyền trưởng Quân

B. Xung đột giữa cụ Bản và mọi người

C. Xung đột giữa ông Đoàn Xoa và vợ con

D. Xung đột giữa ông Đoàn Xoa và tất cả các nhân vật còn lại

Trả lời:

Chọn đáp án: D. Xung đột giữa ông Đoàn Xoa và tất cả các nhân vật còn lại

Câu 4 trang 26 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Phương án nào dưới đây nêu đúng nhất về tính chất của xung đột trong văn bản?

A. Xung đột giữa sự bảo thủ của người già và sự cách tân của lớp trẻ

B. Xung đột giữa sự trung thực và lối sống giả dối

C. Xung đột giữa sự lạc hậu, cứng nhắc, máy móc, duy ý chí trong tư duy của người làm lãnh đạo quan liêu với sự dũng cảm, tiên phong trong cách nghĩ, cách làm của người lao động và người lãnh đạo ở cơ sở gắn bó, thấu hiểu thực tiễn đời sống

D. Xung đột giữa thói quen áp đặt người khác phải nói theo, làm theo, sống theo, nghĩ theo mình của thế hệ đi trước và sự bứt phá, dám nghĩ, dám làm, dám bày tỏ quan điểm cá nhân của thế hệ trẻ

Trả lời:

C. Xung đột giữa sự lạc hậu, cứng nhắc, máy móc, duy ý chí trong tư duy của người làm lãnh đạo quan liêu với sự dũng cảm, tiên phong trong cách nghĩ, cách làm của người lao động và người lãnh đạo ở cơ sở gắn bó, thấu hiểu thực tiễn đời sống.

Câu 5 trang 26 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Liệt kê một vài chỉ dẫn sân khấu và nêu tác dụng của các chỉ dẫn sân khấu đó với người đọc.

Trả lời:

- Các chỉ dẫn sân khấu: Với mọi người, vồn vã, mọi người yên lặng nhìn nhau,…

- Tác dụng: cho biết bối cảnh của đoạn trích, cho biết các hành động, biểu đạt đi kèm ngôn ngữ của nhân vật, nhờ đó, giúp người đọc hình dung ra nhân vật rõ nét, sinh động hơn, hiểu được ý nghĩa của lời thoại.

Câu 6 trang 26 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: (Câu hỏi 4, SGK) Em có đồng tình với ý kiến: “Tôi nói ông là người duy tâm, người trái ngược tự nhiên...”, “Nguyên do của cái nghèo, một phần vì còn tồn tại nhiều người nghĩ trái tự nhiên như ông đấy.” của thuyền trưởng Quân về nhân vật Đoàn Xoa không? Vì sao?

Trả lời:

- Người duy tâm: người có quan điểm duy tâm (trái với duy vật), cho rằng tinh thần, ý thức, tâm lí là cái có trước và quyết định sự tồn tại của thế giới vật chất. Người trái ngược tự nhiên: người suy nghĩ và hành động không thuận theo các quy luật của thực tiễn.

- Trong lời thoại của mình, nhân vật Quân nói thẳng với ông Đoàn Xoa hai điều: (1) Ông là người duy tâm, người trái ngược tự nhiên; (2) Lối suy nghĩ duy tâm, trái tự nhiên của ông Xoa và nhiều người là một trong những nguyên nhân làm cho đất nước mãi đói nghèo. Đó là một ý kiến thẳng thắn, dũng cảm và “bắt bệnh” rất chính xác.

- Ông Xoa là người duy tâm, trái tự nhiên trong suy nghĩ.

+ “Tình hình nhiều nơi nguy cấp lắm. Công cụ sản xuất giao vào tay xã viên”; “Rồi cả những vật tư [...] họ dám cả gan bán cho từng nhà”; “Người ta có thể làm đến chết trâu chết bò [...] Họ làm vì hợp tác hay vì cá nhân họ?”; “Làm gì còn có hợp tác [...] Loạn, loạn đến nơi rồi!”, “ tại sao cá là sản phẩm của nhà nước, tài sản xã hội chủ nghĩa, mà các anh lại đem bán ra ngoài. Ai cho phép?”, “Vậy thì họ làm việc vì cái gì? Vì lí tưởng hay vì miếng ăn?”.

+ Qua các lời thoại trên có thể thấy:

• Ông Xoa tách rời lợi ích của hợp tác xã và cá nhân, lợi ích của mỗi người và lợi ích chung của đất nước, chỉ quan tâm đến lợi ích của hợp tác, của nhà nước, áo của mỗi người, mỗi gia đình); ông tách rời “lí tưởng” (thuộc về đời sống tinh không quan tâm đến lợi ích của cá nhân (gắn liền với cuộc sống, miếng cơm, manh thần, khát vọng của con người) với “miếng ăn” (thuộc về vật chất, đời sống hằng ngày của con người) và chỉ coi trọng việc “vì lí tưởng”, không quan tâm, thậm chí coi thường chuyện “vì miếng ăn”, không quan tâm đến cuộc sống cơm áo gạo tiền của con người. Trong khi đó, như lời nhân vật Quân chỉ rõ: “Phải chăm lo đến người lao động thì họ mới toàn tâm toàn ý được”; “Ngoài nghĩa vụ đóng góp với nhà nước, với tập thể, còn có phần của chúng tôi. Chúng tôi được quyền hưởng. Thích ăn, thích cho hay đem bán là tuỳ ý”; “Cái lối ở đâu không chăm lo đến đời sống của người lao động, mà lại đòi hỏi họ phải hi sinh để làm ra nhiều của cải”.

• Ông Xoa yêu cầu phải thực hiện đúng các chủ trương, chính sách đã đề ra mà không quan tâm xem điều đó có còn phù hợp với thực tiễn nữa không. Chủ trương hợp tác hoá có thể phù hợp trong bối cảnh đất nước có chiến tranh, cần huy động tối đa sức người, sức của, đặt lợi ích của tập thể, của đất nước lên hàng đầu, mỗi cá nhân sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân,... Nhưng nay bối cảnh đã thay đổi. Chính sách hợp tác hoá, quốc hữu hoá tư liệu sản xuất, ăn chung, làm chung, hưởng chung, sở hữu tập thể đã trở nên lỗi thời, lạc hậu. Nó mài mòn động lực cố gắng của mỗi cá nhân. Vì làm ít, làm nhiều, thực hiện có hiệu quả hay không hiệu quả cũng được hưởng thành quả như nhau. Nó cào bằng lợi ích của mỗi người, mỗi gia đình. Nó dẫn đến việc ỷ lại vào tập thể, lười biếng, thiếu sáng tạo, “cha chung không ai khóc”. Kết quả là kéo lùi sự phát triển. Đáng lẽ khi thấy sự việc nơi nơi người ta “khoán chui” ông Xoa phải thâm nhập thực tiễn để tìm nguyên nhân, tham mưu để thay đổi chủ trương, chính sách cho phù hợp. Trái lại, ông suy nghĩ cứng nhắc, áp đặt, máy móc rằng cứ không đúng như chính sách là sai trái (dẫu chính sách đó đã lạc hậu so với thực tiễn). Cho nên nói đến “khoán” là “dị ứng”, cái tên “khoán chui” thể hiện sự kì thị, phân biệt, “dán nhãn”. Không thấy rằng người dân nhờ “khoán chui” mà khá giả, mọi nghĩa vụ nộp cho nhà nước vẫn hoàn thành tốt, mà chỉ đánh giá như thế là “xé rào”, là sai đường lối, là vi phạm. Thấy dân phải ăn xin, đói khổ khi còn trong cơ chế hợp tác ăn chung, làm chung thì chỉ biết trách móc lãnh đạo xã. Nhưng khi thấy dân no nhờ khoán thì lại đùng đùng nổi giận. Thấy dân mang sản phẩm được phân chia của mình đi bán thì cho là “bán chui”. Lấy các chính sách đã lạc hậu so với sự phát triển của thực tiễn để làm “khuôn vàng thước ngọc”, “ép” thực tiễn, cho nên những gì vượt ra ngoài điều đó theo quy luật tất yếu của tự nhiên lập tức sẽ bị quy kết là “Loạn”, “Loạn đến nơi rồi!”. Kì thực, đó không phải là “loạn” mà là sự dũng cảm, tiên phong, lăng nghe và hành động theo thực tiễn. Một suy nghĩ, hành động như thế là duy tâm, là trái với tự nhiên. Tiếng cười trong đoạn trích hướng vào phê phán cái lạc hậu, duy tâm, trái tự nhiên đó để mở đường cho sự phát triển.

- Hậu quả của lối suy nghĩ và hành động duy tâm, trái tự nhiên:

+ Làm cho đất nước mãi nghèo, kéo lùi sự phát triển của đất nước. Điều này được thể hiện ngay trong các minh chứng thực tế từ tác phẩm. Lối làm ăn tập thể “đánh trống ghi tên” đã dẫn đến kết cục là dẫu ruộng đất thẳng cánh cò bay, đất đai bờ xôi ruộng mật, tư liệu sản xuất được cung cấp đầy đủ,... thế mà năng suất lao động kém, sản lượng thu hoạch thấp, dân phải chịu cảnh đói kém, tha hương để xin ăn. Chính bản thân ông Xoa và gia đình cũng có cuộc sống rất khó khăn. Từ Hà Nội về quê, quà ông mang về cho gia đình thực chất là thứ lương thực “cứu đói” mà ông dành dụm, chịu khó tích cóp,... Kết quả của việc “khoán chui” chỉ trong mấy vụ đã cho thấy cuộc sống của người dân tốt lên như thế nào: gia đình ông Bản xây được nhà mới, bà con nông dân no ấm, chăm chút cho mảnh ruộng của mình, thuỷ thủ được đàng hoàng mang sản phẩm dư thừa của mình đi bán tự do, người có nhu cầu có thể tự do mua bán,...

+ Không chỉ như vậy, lối suy nghĩ và hành động đó còn dẫn đến việc làm tha hoá con người. Người ta không thể “ngồi chờ chết” nên buộc phải “xoay xoả để mà sống”. “Có điều rằng cách suy nghĩ như ông đã biến người ta thành kẻ cắp. Người lương thiện nhất là ăn cắp giờ”. Hay như những người thân của ông, những người dân vốn yêu quý, hiểu tình cảm của ông với gia đình, quê hương nhưng cũng không thể nói thật với ông, họ buộc phải chọn cách nói dối, làm “chui”,... Trong khi đó, đáng lẽ người ta phải được “quyền ngẩng cao đầu mà tự hào rằng: Ngoài nghĩa vụ đã đóng góp với nhà nước, với tập thể, còn có phần của chúng tôi. Chúng tôi được quyền hưởng. Thích ăn, thích cho hay đem bán là tuỳ ý”....

Câu 7 trang 27 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: (Câu hỏi 5, SGK) Có ý kiến cho rằng để thể hiện tính cách nhân vật Đoàn Xoa, chỉ cần nêu sự việc ông phát hiện “khoán chui”, không cần thêm chi tiết “bán cá chui” trên bãi biển. Ý kiến của em như thế nào?

Trả lời:

- Việc xuất hiện thêm chi tiết “bán chui” của thuỷ thủ bên cạnh chi tiết “khoán chui” của hợp tác xã cho thấy bức tranh rộng lớn của tình hình thực tế. Nó chứng tỏ chính sách đã thực sự lạc hậu, sự bứt phá, “xé rào” của thực tiễn là điều diễn ra phổ biến, rộng khắp, chỉ có những người quan liêu, áp đặt, xa rời thực tiễn mới không nhận ra điều này.

- Chi tiết “bán chui” cá của các thuỷ thủ thúc đẩy sự phát triển tính cách, hành động của nhân vật, làm cho mâu thuẫn kịch lên đến đỉnh điểm buộc phải giải quyết Đó là mâu thuẫn giữa lỗi suy nghĩ áp đặt, máy móc, duy tâm, trái với tự nhiên c ông Xoa với thực tiễn đời sống linh hoạt, sống động, không chịu tuân theo sự “chỉ đạo” sách vở, giáo điều.

Câu 8 trang 27 SBT Ngữ Văn 12 Tập 1: Theo em, tiếng cười trong đoạn trích Loạn đến nơi rồi! còn có ý nghĩa trong cuộc sống hiện nay không? Vì sao?

Trả lời:

- Hiện tượng “khoán chui” một thời đã dần được “ra chỗ sáng” (băng chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (1981), bằng chính sách “Khoán 10” của Bộ Chính trị), tuy nhiên hiện tượng những con người duy ý chí, quan liêu, áp đặt, cứng nhắc, không quan tâm đến thực tiễn... vẫn còn tồn tại. Tiếng cười trong đoạn trích vẫn tìm thấy đối tượng và phát huy tác dụng của nó trong cuộc sống hôm nay.

- Ví dụ: Trong nông nghiệp là hiện tượng bất chấp thổ nhưỡng, khí hậu, quy luật cung – cầu của thị trường để chọn chăn nuôi, trồng trọt loại con, loại cây nào đó theo “phong trào”. Hoặc chủ trương thu hút nhân tài trong các cơ quan, các địa phương,... mang tính duy ý chí, chỉ để thể hiện lãnh đạo địa phương, cơ quan đã thức thời, trọng dụng nhân tài, nhưng không đầu tư để có môi trường, điều kiện phù hợp cho những người được thu hút có “đất” để dụng võ,...

Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 12 Bài 2: Hài kịch hay khác:

Xem thêm giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 12 Cánh diều hay, chi tiết khác: