SBT Ngữ văn 9 Bài 9 Đọc trang 62, 63 - Chân trời sáng tạo


Haylamdo biên soạn và sưu tầm lời giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Bài 9 Đọc trang 62, 63 sách Chân trời sáng tạo hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Văn 9.

Giải SBT Ngữ văn 9 Bài 9 Đọc trang 62, 63 - Chân trời sáng tạo

Câu 1 trang 62 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Tìm từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống (làm vào vở):

Bi kịch là thể loại kịch tập trung khai thác những …………. gay gắt giữa khát vọng cao đẹp của con người với tình thế bị đát của thực tại, dẫn tới sự thảm bại hay cái chết của ………….. Từ kết cục bi thương đó, bi kịch thường mang đến cho người đọc những ………... quý giá và tinh thần ...............

Trả lời:

Bi kịch là thể loại kịch tập trung khai thác những xung đột gay gắt giữa khát vọng cao đẹp của con người với tình thế bi đát của thực tại, dẫn tới sự thảm bại hay cái chết của nhân vật. Từ kết cục bi thương đó, bi kịch thường mang đến cho người đọc những bài học quý giá và tinh thần lạc quan. 

Câu 2 trang 62 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Điền vào bảng sau những đặc điểm của cốt truyện, xung đột, nhân vật, lời thoại trong bi kịch (làm vào vở):

Các yếu tố của bi kịch

Đặc điểm

Cốt truyện

...

Xung đột

...

Nhân vật

...

Lời thoại

...

Trả lời:

Các yếu tố của bi kịch

Đặc điểm

Cốt truyện

chuỗi sự kiện, biến cố trong câu chuyện kịch tạo nên sự phát triển xung đột, cũng như sự phát triển hành động, tính cách của nhân vật.

Xung đột

thể hiện sự va chạm, đấu tranh, loại trừ giữa các thế lực đối lập; xung đột trong bi kịch nảy sinh giữa cái cao cả với cái cao cả, giữa cái cao cả với cái thấp kém.

Nhân vật

hiện thân cho các thế lực đối lập trong xã hội. Nhân vật chính thường có bản chất tốt đẹp, khát vọng vượt lên thách thức số phận nhưng cũng có thể có những nhược điểm, sai lầm dẫn đến phải trả giá đắt.

Lời thoại

gồm đối thoại, độc thoại, bàng thoại; lời thoại trong bi kịch mang tính chất trang trọng, triết lí, thể hiện quan điểm, ý chí và hành động đấu tranh của nhân vật bi kịch.

Câu 3 trang 62 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Chỉ ra sự khác biệt trong tính cách giữa hai nhân vật Ha-nu-man và quỷ Riếp trong văn bản Pơ-liêm, quỷ Riếp và Ha-nu-man. Tính cách của hai nhân vật này có vai trò như thế nào trong việc thể hiện tính cách của nhân vật Pơ-liêm?

Trả lời:

Mối quan hệ

Ha-nu-man

Quỷ Riếp

Với Si-ta

Trân trọng, cảm thương, chấp nhận nguy hiểm để cứu Si-ta

Hoá thân thành Su-pa-kha, hãm hại Si-ta, tiếm ngôi hoàng hậu và lũng đoạn triều đình

Với Pơ-liêm

Ái ngại trước sai lầm của Pơ-liêm nhưng trung thành, tìm cách cho cha con Pơ-liêm đoàn tụ

Tìm cách lừa Pơ-liêm, gây nên sự ghen tuông mù quáng và mang lại những đau khổ cho chàng

→ Tính cách

Hiện thân cho khao khát làm người nhân hậu, trung thực, chuyên làm việc tốt

Hiện thân của dục vọng xấu xa; không từ một mưu mô, hành động tàn ác nào

Pơ-liêm là hiện thân cho tính nhiều mặt phức tạp của con người. Để giữ gìn bản tính nhân hậu, trung thực, tốt đẹp của con người, sự sáng suốt, anh minh của một vị vua, Pơ-liêm phải đấu tranh triệt để loại bỏ phần đen tối, thấp kém trong con người mình như lòng ngờ vực, ghen tuông cùng những dục vọng đen tối.

Đó chính là cuộc đấu tranh giữa phần người (hiện thân là Ha-nu-man) và phần ma quỷ (hiện thân là Riếp). Đây là hai mặt sáng – tối trong con người Pơ-liêm. Để thể hiện nhân vật Pơ-liêm cùng cuộc đấu tranh này, văn bản không thể thiếu hai nhân vật Ha-nu-man và Riếp.

Câu 4 trang 62 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Nêu ví dụ về lời đối thoại, lời độc thoại của nhân vật Rô-mê-ô, Giu-li-ét trong văn bản Tình yêu và thù hận; cho biết việc sử dụng các lời độc thoại có tác dụng thế nào trong việc thể hiện hành động, tâm lí của nhân vật.

Trả lời:

Nhân vật

Đối thoại

Độc thoại

Giu-li-ét

Anh làm thế nào tới được chốn này, anh ơi, mà tới làm gì thế? Tường vườn này cao, rất khó trèo qua; và nơi tử địa, anh biết mình là ai rồi đấy, nếu anh bị họ hàng nhà em bắt gặp nơi đây.

Ôi, Rô-mê-ô, chàng Rô-mê-ô! Sao chàng lại là Rô-mê-ô nhỉ? Chàng hãy khước từ cha chàng và từ chối dòng họ của chàng đi; hoặc nếu không thì chàng hãy thề là yêu em đi, và em sẽ không còn là con cháu của nhà Ca-piu-lét nữa.

Rô-mê-ô

Tôi vượt được tường này là nhờ đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu; mấy bức tường đá ngăn sao được tình yêu; mà cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm; vậy người nhà em ngăn sao nổi tôi.

Nàng lên tiếng! Hỡi nàng tiên lộng lẫy, hãy nói nữa đi! Bởi đêm nay, nàng toả ánh hào quang, trên đầu ta, như một sứ giả nhà trời có cánh, đang cưỡi những áng mây lững lờ lướt nhẹ trong không trung, khiến những kẻ trần tục phải cố ngước đôi mắt trắng dã lên mà chiêm ngưỡng.

Tác dụng:

Lời đối thoại: Rô-mê-ô và Giu-li-ét nói với nhau là giao tiếp, giãi bày cho nhau biết rõ tình cảm, thái độ của mình về tình yêu, về ý chí vượt qua những thế lực cản trở tình yêu và nghịch cảnh. Dĩ nhiên, trong màn kịch này cũng như trong các vở kịch nói chung, đối thoại luôn là chủ yếu, chiếm tỉ lệ cao trong tổng số các lượt thoại.

Lời độc thoại: Khi Rô-mê-ô bí mật vượt tường vào vườn nhà Ca-piu-lét để ngắm nhìn Giu-li-ét xuất hiện bên khung cửa sổ từ xa, chàng “nói riêng” những cảm xúc si mê, choáng ngợp trước vẻ đẹp của Giu-li-ét. Khi Giu-li-ét chưa biết sự có mặt Rô-mê-ô trong vườn nhà, nàng cũng “nói riêng” để bộc lộ những băn khoăn hồn nhiên về dòng họ của Rô-mê-ô và những tơ tưởng về Rô-mê-ô. Đó là những tình huống cần đến lời độc thoại, hành động “nói riêng”.

Sự kết hợp đối thoại và độc thoại: Đối thoại là lời nói hướng đến người nghe, độc thoại là lời nói với chính mình, riêng mình; sự kết hợp đối thoại và độc thoại vừa giúp thể hiện được cả hành động bên ngoài lẫn hành động bên trong của nhân vật, qua đó thể hiện tính cách nhân vật một cách đầy đặn, đa dạng vừa dẫn dắt xung đột kịch phát triển.

Câu 5 trang 62 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Trong lời thoại của Rô-mê-ô, Giu-li-ét, các từ ngữ “bức tường”, “lưỡi kiếm”, ngoài nghĩa chỉ sự vật cụ thể, còn có nghĩa nào khác hay không? Các từ ngữ đó có tác dụng gì trong việc thể hiện xung đột kịch?

Trả lời:

Trong lời thoại của Rô-mê-ô và Giu-li-ét, các từ ngữ “bức tường”, “lưỡi kiếm” ngoài nghĩa chỉ sự vật cụ thể còn có ý nghĩa khác. Cụ thể:

Ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng của các từ ngữ “bức tường”, “lưỡi kiếm”:

- “Bức tường” vừa là vật thể thực vừa mang nghĩa: biểu tượng về vùng cấm, đường biên ngăn cách giữa hai dòng họ và giữa đôi trẻ Rô-mê-ô, Giu-li-ét.

- “Lưỡi kiếm” vừa là vật thể vừa mang nghĩa: hình phạt, sự trả giá đau thương nếu vi phạm đường biên, vùng cấm, bất chấp hận thù.

Tác dụng trong việc thể hiện xung đột kịch: các từ ngữ này thể hiện xung đột và những lời nguyền lâu đời bất khả giải giữa hai dòng họ. Cả Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã nhận ra sự phi lí của “bức tường”, “lưỡi kiếm” giữa hai dòng họ. Giu-li-ét hồn nhiên tự vấn: “Chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi. Nếu chẳng phải là người họ Môn-ta-ghiu thì chàng vẫn cứ là chàng. Môn-ta-ghiu là cái gì nhỉ? Đó đâu phải là bàn tay, hay bàn chân, hay cánh tay, hay mặt mũi, hay một bộ phận nào đấy của cơ thể con người. Chàng ơi! Hãy mang tên họ nào khác đi! Cái tên nó có nghĩa gì đâu? Bông hồng kia, giá chúng ta gọi bằng một tên khác thì hương thơm cũng vẫn ngọt ngào. Vậy nếu chàng Rô-mê-ô chẳng mang tên Rô-mê-ô nữa, thì mười phân chàng vẫn cứ vẹn mười... Rô-mê-ô chàng ơi, chàng hãy vứt bỏ tên họ của chàng đi; chàng hãy đem tên họ ấy, nó đâu phải xương thịt của chàng, đổi lấy cả em đây!”.

Rô-mê-ô thì dõng dạc khẳng định: “Hỡi nàng tiên kiều diễm, chẳng phải Rô-mê-ô cũng chẳng phải Môn-ta-ghiu, nếu em không ưa tên họ đó”.

Điều đó tất yếu làm nảy sinh và thúc đẩy xung đột bi kịch giữa tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét với luật lệ quy ước bất khả xâm phạm của dòng họ. Nó dự báo những thách thức bi kịch mà hai nhân vật phải đối mặt cũng như hứa hẹn những trắc trở, chông gai mà họ phải vượt qua.

Câu 6 trang 63 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Tóm tắt cốt truyện và xác định xung đột/ kiểu xung đột kịch trong văn bản Cái bóng trên tường.

Trả lời:

– Tóm tắt cốt truyện kịch:

Cái bóng trên tường là chi tiết quan trọng trong một truyện kể dân gian về nỗi oan khuất của nàng Vũ Thị Thiết, sau được Nguyễn Dữ viết thành truyện truyền kì nổi tiếng: Chuyện người con gái Nam Xương (xem Bài 4 Con người trong thế giới kì ảo). Đến lượt mình, nhà văn Nguyễn Đình Thi viết thành vở kịch một màn với nhan đề Cái bóng trên tường. Vở kịch gồm các nhân vật: Người chồng (họ Trương), người vợ, tiếng người chồng, tiếng đứa con (tên Đản), bóng người vợ.

Có thể tóm tắt như sau:

Người chồng đi lính nơi biên ải xa tưởng đã chết, bỗng trở về gặp lại vợ con. Trong lúc đi thăm mộ mẹ, anh ta nghe tiếng đứa con nói về một người bố khác, đêm nào cũng đến với hai mẹ con. Người chồng nghĩ rằng vợ mình đã thay lòng đổi dạ, theo người đàn ông khác nên mắng nhiếc thậm tệ, một mực đuổi vợ đi. Người vợ mang nỗi oan ra đi và gieo mình xuống sông. Biết tin, người chồng rất ngạc nhiên, thương xót và có phần hối hận vì đã nặng lời với vợ. Khi đêm xuống, thắp đèn lên, đứa con tên Đản chỉ lên cái bóng người chồng trên tường mà gọi bố, nói rằng đó mới chính là bố Đản. Người chồng vỡ lẽ ra rằng: Hoá ra vợ mình vẫn một lòng nuôi con, rất mực chịu thương chịu khó, chung thuỷ với chồng. Biết vợ đã vì mình mà chết oan, người chồng ngã vật xuống, ngất đi. Trong cơn mê của anh, bóng người vợ hiện lên an ủi chồng và nói nàng vẫn ở bên anh qua cái bóng trên tường mỗi đêm, khi anh thắp đèn lên.

- Xác định xung đột/ kiểu xung đột kịch:

Xung đột của vở kịch Cái bóng trên tường là xung đột giữa thói hồ đồ, ghen tuông của người chồng với lòng thuỷ chung của người vợ.

Đây là kiểu xung đột giữa cái cao cả với cái thấp kém, tạo nên tính bị kịch của tác phẩm.

Câu 7 trang 63 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

KHÔNG CÒN AI KHỐN KHỔ HƠN ANH

(Trích Âm mưu và ái tình)

Si-le (Sile/ Schiller)

Âm mưu và ái tình là một trong những vở kịch gây xúc động sâu sắc nhất của Si-le (nhà soạn kịch nổi tiếng người Đức).

Cốt truyện như sau: Phúc-đi-năng (Ferdinand) là một thanh niên giàu ý chí tự do, con trai tể tướng Phôn Van-te (Von Walter). Bất chấp thành kiến xã hội, sự phân biệt đẳng cấp, chàng quyết tâm lấy Luy-dơ (Luise), cô gái mà chàng yêu tha thiết, con của nhạc công Min-le (Miller) làm vợ. Tể tướng Van-te kiên quyết chống lại cuộc tình duyên này. Ông bắt Phéc-đi-năng phải cầu hôn nàng Min-pho (Milford), nhân tình của Hoàng thân mà Hoàng thân đang muốn rũ bỏ. Bất bình, phẫn nộ, Phéc-đi-năng doạ sẽ tố cáo tội ác giết quan tể tướng trước đây của cha nếu ông cứ khăng khăng ép chàng bỏ người mà mình yêu quý để lấy ả “gái điếm thượng lưu” kia.

Tể tướng Van-te dùng kế li gián Phéc-đi-năng với Luy-dơ do tên thư kí Vuôm (Wurm) dàn dựng. Chúng bắt giam vợ chồng nhạc công Min-le và ra điều kiện với Luy-dơ: Nếu nàng thuận viết một lá thư hò hẹn gặp gỡ với Thị vệ trưởng Ka-bơ (Calb, kẻ mà nàng chưa hề quen biết) thì bố mẹ nàng sẽ được thả ra. Vì muốn cứu bố mẹ, Luy-dơ đành phải viết thư theo lời đọc của chúng và thề giữ kín việc này. Chúng làm như vô tình để bức thư đó rơi vào tay Phéc-đi-năng.

Phéc-đi-năng ngờ vực sự trong trắng, ngây thơ và chung thuỷ của Luy-dơ. Trong khi đó, vì lo sợ cho tính mạng của bố mẹ, Luy-dơ đành phải cắn răng chịu đựng nỗi đau oan ức. Nghĩ rằng Luy-dơ đã phản bội niềm tin và tình yêu của mình, Phéc-đi-năng bèn lén bỏ thuốc độc vào cốc nước rồi cả hai người cùng uống. Mãi khi biết mình sắp chết, Luy-dơ mới dám nói lên sự thật về lá thư oan nghiệt kia.

Phân Van-te và tay chân của hắn đã hiện nguyên hình là một lũ mặt người dạ sói, độc ác, quỷ quyệt và ti tiện. Tỉnh ngộ, Phéc-đi-năng vùng lên. Chàng muốn trừng phạt người cha đao phủ cùng với “lũ dòi bọ. Nhưng thuốc độc đã ngấm, chàng gục xuống bên xác người yêu với niềm tin tưởng rằng từ nay họ sẽ bên nhau mãi mãi. Văn bản đã được điều chỉnh một vài từ ngữ cho phù hợp với học sinh.

Không còn ai khốn khổ hơn anh! là cảnh gần kết thúc của vở kịch. Trước đó là cảnh Phéc-đi-năng đến nhà ông Min-le, gặp ông để bày tỏ lòng thương xót đối với cảnh ngộ gia đình họ. Phéc-đi-năng đã rắp tâm dùng thuốc độc để giết chết Luy-dơ, trừng phạt tội phản bội của nàng như chàng lầm tưởng, rồi sau đó chàng cũng tự sát theo nàng. Chàng đã bỏ thuốc độc vào li nước chanh và bảo nàng uống trước rồi chàng sẽ uống nốt phần còn lại.

Phéc-đi-năng (giọng mệnh lệnh): – Uống đi!

(Luy-dơ miễn cưỡng nâng cốc, và uống – Phéc-đi-năng tái mặt quay vụt đi, khi thấy nàng đưa cốc lên môi, chàng vội vã lui vào một góc phòng).

Luy-dơ: – Tôi thấy cốc nước này uống được đấy chứ!

Phéc-đi-năng (rùng mình, không quay lại): – Càng thoải mái cho ngươi.

Luy-dơ (sau khi đã đặt cốc nước xuống): - Ôi, Van-te, ông biết đâu rằng ông đã sỉ nhục linh hồn tôi ghê gớm biết chừng nào!

Phéc-đi-năng: - Hừ!

Luy-dơ: – Ông Van-te, rồi sẽ đến lúc...

Phéc-đi-năng (lại trở về đằng trước): – Ồ, chúng ta xong chuyện với thời gian rồi.

Luy-dơ: – Vâng, rồi sẽ đến lúc mà những việc buổi tối hôm nay sẽ đè nặng lên trái tim ông...

Phéc-đi-năng (bắt đầu bồn chồn đi đi lại lại, vẻ bứt rứt hơn, cởi thanh gươm và dây đeo ném ra xa): – Hãy ngủ ngon hỡi sứ mệnh của cung đình!

Luy-dơ: – Trời ơi, ông làm sao thế?

Phéc-đi-năng: – Bức bối, chật chội quá! Ta muốn cho thoáng một chút.

Luy-dơ: – Uống đi, uống đi! Cốc nước này sẽ làm cho ông mát mẻ, dễ chịu hơn.

Phéc-đi-năng: – Ừ, đã hẳn rồi, nó sẽ khiến ta mát mẻ, dễ chịu hơn. Hừ, một đứa con gái hư hỏng mà cũng biết có lòng ái ngại... Lòng chúng nó đứa nào mà chả thế!

Luy-dơ (với một vẻ yêu thương vô hạn, chạy vào vòng tay yêu thương của Phúc-đi-năng): - Anh nói Luy-dơ của anh những lời như vậy ư, anh Phéc-đi-năng?

Phéc-đi-năng (đẩy nàng ra xa): – Xéo đi, xéo đi! Lánh xa ta đi hỡi cặp hiện nguyên hình xấu xa, khủng khiếp của ngươi đi! Hỡi loài trùng đốn mắt dịu dàng thảm thiết này! Trời, ta sa ngã mất! Hỡi con rắn độc, hãy mạt, hãy chồm lên người ta đi! Hãy trải ra trước mắt ta và hãy vươn cao lên đến tận trời những khúc rắn quái gở của người đi! Hãy phơi bày ra đây phần xấu xa, gớm ghiếc mà vực thẳm địa ngục vẫn hằng ngắm nghía ngươi... Đừng là thiên thần nữa! Muộn quá rồi! Ta phải giẫm nát ngươi như một con rắn độc hoặc phải chìm đắm trong tuyệt vọng... Ôi thương hại thay cho ta!

Luy-dơ: – Trời! Đến nông nỗi này sao?

Phéc-đi-năng (liếc nhìn nàng): - Cái công trình tuyệt diệu này của tay Thợ Trời... Ai có ngờ đâu... Ai nỡ tin được rằng... (nắm lấy tay Luy-do và giơ lên trời). Hỡi tạo hoá, ta không muốn có ý nghĩ đòi Người đến trước mặt ta để nghe ta chất vấn! Nhưng sao Người lại chứa thuốc độc trong cái bình đẹp đẽ như thế này? Sao nó lại sinh sôi, nảy nở trong miền trời dịu dàng đến thế này được? Thực là quá đỗi lạ lùng!

Luy-dơ: – Chao ôi! Tai nghe những lời cay đắng này mà phải lặng câm!

Phéc-đi-năng: – Lại còn cái giọng thấm thía ngọt ngào kia nữa!... Dây đàn đứt nát, mà sao lại nảy lên được những âm thanh êm dịu tới bậc này! (Mắt say sưa, chăm chú nhìn Luy-dơ) – Tất cả đẹp đẽ đến thế, cân đối đến thế, hoàn thiện đến tuyệt trần... Tất cả đều là công trình của phút cảm hứng đắc ý nhất của tạo hoá! Ta nói có trời! Dường như vũ trụ này sinh ra là để gây hứng khởi cho tạo hoá dụng công trình kiệt tác này của Người... Vậy ra chỉ trong linh hồn người đàn bà này là Chúa có sự lầm lẫn chăng? Có thể nào một linh hồn méo lệch, quái gở đến thế lại trú ngụ trong một thể xác toàn mĩ như thế này được chăng? (Đột ngột rời xa nàng). Hay là đấng tạo hoá chợt nhận ra ngọn dao điêu khắc của mình đã lỡ dựng lên một thiên thần, Người liền vội vã sửa lại cái lầm mà đặt vào công trình của Người một trái tim càng quỷ quái hơn?

Luy-dơ: – Cương ngạnh và ác độc! Chàng đang chửi rủa Chúa, chứ không chịu nhận rằng mình đã buông những lời xét đoán quá vội vàng!

Phéc-đi-năng (Chạy lại ôm cổ Luy-dơ khóc nức nở): – Thêm một lần nữa, Luy-dơ! Thêm một lần nữa thôi, như ngày chúng ta hôn nhau lần đầu tiên, khi lần đầu tiên em thì thầm gọi “anh”! Ôi, trong giây phút ấy đã chứa đựng hạt giống của những niềm vui vô cùng vô tận không lời nào diễn tả nổi, trong một nụ hôn... Khi ấy vĩnh cửu đã hiện ra trước mắt chúng ta tưng bừng như một ngày tháng Năm rực rỡ. Khi ấy, những thiên kỉ hoàng kim đã nhảy múa vui say như những đôi tình nhân trước linh hồn chúng ta! Ôi, khi ấy anh đã là kẻ hạnh phúc. Luy-dơ! Luy-dơ sao em nỡ làm điều ấy đối với anh?

Luy-dơ: – Khóc đi, khóc đi, Van-te! Nỗi đau thương của anh công bằng đối với em hơn là cơn giận dữ của anh.

Phéc-đi-năng: – Cô làm rồi, đây không phải là những giọt nước mắt đau thương! Đây không phải là giọt sương ấm áp, khoái lạc có sức thấm đượm hương thơm vào những vết thương của linh hồn, và làm sống động bánh xe cảm xúc đã cứng đờ. Đây là những giọt cô đơn, giá ngắt như băng... Đây là lời vĩnh biệt khủng khiếp đối với tình yêu của ta. (Giọng trang nghiêm dữ dội, nặng nề đặt tay lên đầu Luy-dơ). Luy-dơ! Đó là những giọt nước mắt của ta khóc linh hồn cô... Những giọt nước mắt ta khóc than đấng tạo hoá mà lòng nhân từ vô cùng đến đây đã thất bại và bởi một ý oái oăm đã bỏ dở dang cái tác phẩm đáng lẽ là huy hoàng nhất của Người. Ôi, dường như cả tạo vật sẽ phải choàng tấm khăn tang, sẽ phải sửng sốt kinh hoàng trước tai biến đã xảy ra giữa lòng tạo vật... Con người ta sa ngã, và đánh mất thiên đường, đó là điều thường thấy; nhưng khi ôn dịch lại hoành hành ngay trong các thiên thần, thì khi đó, ôi, khi đó cần phải nổi hiệu báo tang trong khắp cả tạo vật.

Luy-dơ: – Van-te, xin đừng dồn tôi đến chỗ cùng đường. Linh hồn tôi có sức mạnh không kém bất kì ai, nhưng xin đừng bắt tôi phải chịu thử thách quá sức chịu đựng của loài người. Van-te, một lời nữa thôi, rồi chúng ta hãy xa lìa nhau đi! Một số mệnh ghê gớm đã gieo sự hỗn loạn vào tiếng nói của trái tim chúng ta. Nếu em có quyền mở miệng, thì em sẽ nói anh nghe những điều... em sẽ có thể... Nhưng số mệnh khắc nghiệt đã trói chặt miệng lưỡi em và tình yêu của em. Em đành phải chịu để anh hành hạ em như một đứa con gái hư hỏng, đê hèn.

Phéc-đi-năng: – Cô tự thấy cô có thoải mái không, Luy-dơ?

Luy-dơ: – Sao ông lại hỏi tôi câu ấy?

Phéc-đi-năng: – Bởi vì nếu không phải như vậy thì ta rất lấy làm tiếc rằng sẽ phải thấy cô đi khỏi nơi này mà lương tâm còn nặng trĩu một điều gian dối.

Luy-dơ: – Tôi xin thề với ông, ông Van-te...

Phéc-đi-năng (xúc động dữ dội): – Không, không! Như vậy thì sự trả thù này ma quỷ quá! Không, xin Chúa tránh cho ta điều đó! Ta không muốn trả thù như vậy ở cả thế giới bên kia... Luy-dơ! Cô có yêu Thị vệ trưởng không? Cô sẽ không ra khỏi gian phòng này được nữa đâu!

Luy-dơ: – Ông muốn hỏi gì thì hỏi, tôi sẽ không trả lời nữa (ngồi xuống).

Phéc-đi-năng (càng thêm nghiêm nghị): – Hãy nghĩ đến linh hồn vĩnh cửu của em, em không thể... Luy-dơ! Cô có yêu Thị vệ trưởng không? Cô sẽ không ra khỏi gian phòng này được nữa đâu.

Luy-dơ: – Tôi sẽ không trả lời nữa.

Phéc-đi-năng (hoảng loạn cực độ, quỳ sụp xuống chân Luy-dơ): – Luy-dơ, cô có yêu Thị vệ trưởng không? Trước khi ngọn đèn này tắt... cô sẽ phải... đứng trước mặt Chúa rồi!

Luy-dơ (vùng đứng dậy, kinh sợ): – Giê-xu! Sao?... Tôi thấy khó chịu quá! (ngã người xuống ghế).

Phéc-đi-năng: – Nhanh chóng đến thế sao? Cái giống đàn bà các người thật là điều bí ẩn muôn đời! Thân hình mỏng manh của họ vững vàng chẳng núng trước những tội ác có sức đục khoét loài người đến tận gốc rễ, vậy mà một hạt nhân ngôn đã đủ quật ngã họ rồi!

Luy-dơ: – Thuốc độc! Thuốc độc! Trời đất ơi!

Phéc-đi-năng: – Có lẽ đúng đấy. Cốc nước chanh của cô đã được địa ngục thêm gia vị, và cô vừa mới nâng cốc chúc sức khoẻ thần Chết đó.

Luy-dơ: – Phải chết, phải chết ư? Hỡi Chúa vô cùng nhân từ! Trong nước chanh có thuốc độc! Tôi chết mất! Lạy Chúa vô cùng nhân từ, xin thương xót linh hồn tôi.

Phéc-đi-năng: – Đó chính là điều cần nhất! Ta cũng cầu xin nơi Chúa điều đó.

Luy-dơ: – Còn mẹ tôi... còn cha tôi... Lạy Chúa cứu thế xin thương xót cha mẹ tôi! Ôi, người cha tội nghiệp vô vọng của tôi! Không còn cứu được nữa sao? Cuộc đời non trẻ của tôi không còn cứu được nữa sao? Tôi phải ra đi rồi ư?

Phéc-đi-năng: – Không, không thể nào cứu được nữa. Cô phải ra đi rồi... Nhưng hãy yên tâm, chúng ta sẽ cùng đi với nhau.

Luy-dơ: – Cả anh nữa ư, Phéc-đi-năng? Thuốc độc... Phéc-đi-năng Thuốc độc do chính tay anh ư! Lạy Chúa xin tha thứ cho chàng! Xin Chúa nhân từ xoá tội cho chàng!

Phéc-đi-năng: – Hãy cứ lo món nợ của chính thân cô đi! Ta lo rằng món nợ ấy không dễ gì trang trải được đâu.

Luy-dơ: – Phéc-đi-năng! Phéc-đi-năng! Ôi, bây giờ em không thể cảm lặng được nữa... cái chết... cái chết cởi hết mọi lời thề'... Phéc-đi-năng ơi, nữa! Anh Phéc-đi-năng ơi, em chết oan! lúc này đây, trong khắp cõi trời đất này không còn ai khốn khổ hơn anh

Phéc-đi-năng (giật mình, kinh hãi): – Nàng vừa nói gì vậy!

Những kẻ ra đi trong cuộc lữ hành ghê gớm này vẫn không có thói quen mang theo sự gian dối.

Luy-dơ: – Em không nói dối, em không nói dối!... Cả đời em, em chỉ nói dối có một lần... Trời ơi, băng giá rùng rợn đang luồn vào mạch máu ta... Em chỉ nói dối một lần khi em viết bức thư cho Thị vệ trưởng.

Phéc-đi-năng: - A, bức thư.... Cảm tạ Chúa! Ta lại khôi phục được sức quả quyết nam nhi của ta rồi.

Luy-dơ (lưỡi đã ríu lại, ngón tay bắt đầu run giật, co rút): – Bức thư ấy... anh hãy đứng vững mà nghe một lời khủng khiếp... Tay em đã viết những điều mà lòng em nguyền rủa. Bức thư ấy...là do cha anh đọc bắt em viết.

(Phéc-đi-năng đứng sững như pho tượng bị chôn chân xuống đất. Ngừng lặng như chết, dài dặc. Rồi chàng ngã vật xuống đất như bị sét đánh).

Luy-dơ: – Ôi, sự hiểu lầm đáng thương!... Anh Phéc-đi-năng ơi, người ta đã cưỡng bức em... anh tha tội cho em... Luy-do của anh đã muốn thà chọn cái chết còn hơn..., nhưng cha em... gặp nguy hiểm... Ôi! Chúng nó thực xảo quyệt vô cùng.

Phéc-đi-năng (bật dậy, ghê gớm): – Cảm tạ Chúa! Thuốc độc vẫn chưa ngấm vào ta! (tuốt gươm).

Luy-dơ (yếu dần, gục xuống): – Trời! Anh định làm gì vậy? Người ấy là cha anh...

Phéc-đi-năng (điên cuồng, giận dữ): – Tên giết người đã đẻ ra tên giết người!... Mi cũng phải chết, để cho đấng phán xét tối cao chỉ trút con thịnh nộ lên đầu tên ác phạm (định ra).

Luy-dơ: – Đấng cứu thế của ta khi hấp hối cũng đã từng tha thứ... Xin Người tha tội cho anh và cha anh!... (Nàng thở hơi cuối cùng).

Phéc-đi-năng (quay phắt lại, trông thấy cử động cuối cùng của nàng khi hấp hối; đau đớn ngã gục xuống cạnh nàng): – Dừng lại, dừng lại đã! Đừng bỏ anh, hỡi đấng thiên thần của trời cao! (nắm tay nàng, lại vội buông xuống) – Đã lạnh ngắt và ẩm ướt, linh hồn nàng đã lìa xa rồi (đứng bật dậy). Ôi, hỡi Chúa trời của em... Luy-dơ... ta...! Xin tha tội cho cái đứa giết người ghê tởm hơn hết mọi đứa giết người! Đó là lời khẩn cầu cuối cùng của nàng! Cái xác không hồn này vẫn còn xinh đẹp, đáng yêu biết chừng nào! Thần Chết cũng phải cảm động vì nhan sắc tuyệt mĩ của nàng, đã nương nhẹ khi chạm đến đôi má xinh tươi này... Vẻ dịu hiền vô cùng này không hề giả dối; vẻ dịu hiền vô cùng này đã cưỡng lại được cả sự chết (một lát). Nhưng sao vẫn chưa cảm thấy thuốc độc ngấm vào ta? Sức trai tráng của ta muốn cứu ta chăng? Uổng công vô ích thôi! Ta không muốn như vậy (nắm lấy cốc).

(In trong Những tên cướp, Nguyễn Đình Nghi dịch, NXB Văn học, 1983)

a. Tóm tắt nội dung, xác định xung đột, hành động kịch trong văn bản.

b. Chỉ ra những mâu thuẫn được thể hiện trong vở kịch và cho biết các mâu thuẫn đó tác động qua lại với nhau như thế nào.

c. Phân tích tính cách của nhân vật Phéc-đi-năng.

d. Theo em, nét nổi bật trong tính cách của Luy-dơ được thể hiện trong văn bản là gì? Phân tích một số chi tiết trong văn bản để làm rõ nét tính cách đó.

đ. Nhận xét về:

- Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật trong văn bản.

- Vai trò của ngôn ngữ đối thoại trong việc thể hiện tính cách nhân vật.

e. Giải thích nguyên nhân dẫn đến bi kịch tình yêu của Phéc-đi-năng và Luy-dơ trong văn bản. Theo em, thông điệp mà tác giả gửi gắm đến người đọc, người xem đương thời, ngày nay có còn giá trị hay không? Vì sao?

Trả lời:

a. 

- Nội dung văn bản kịch có thể tóm tắt như sau: Phéc-đi-năng đến nhà ông Min-le, rắp tâm dùng thuốc độc để giết chết Luy-dơ, trừng phạt tội phản hội của nàng như chàng lầm tưởng rồi sau đó Phéc-đi-năng cũng tự sát theo nàng. Chàng đã bỏ thuốc độc vào li nước chanh và bảo nàng uống trước rồi mình sẽ uống nốt phần còn lại. Căm giận vì nghĩ rằng Luy-dơ phản bội tình yêu của mình, Phéc-đi-năng đã nói nhiều lời cay độc, làm tổn thương Luy-dơ; gay gắt chất vấn về mối quan hệ giữa nàng với Thị vệ trưởng Ka-bơ. Luy-dơ vẫn im lặng nhẫn nhịn. Cho đến khi biết mình bị đầu độc, thuốc độc ngấm vào người, nàng mới hốt hoảng và đau xót nói rõ sự thật về bức thư gửi cho Ka-bơ. Khi biết rõ sự thật về nỗi oan của Luy-dơ, về mưu mô thâm độc của Tể tướng Van-te, Phéc-đi-năng vô cùng ân hận, đau xót. Nhưng tất cả đã quá muộn.

- Xung đột kịch: Trên bề mặt, màn kịch xoay quanh xung đột giữa Phéc-đi-năng và Luy-dơ, do chàng hiểu lầm rằng Luy-dơ phản bội tình yêu của mình để chạy theo Thị vệ trưởng Ka-bơ. Ở bề sâu vẫn là xung đột giữa tình yêu trong sáng, hồn nhiên của đôi trẻ với những toan tính, vụ lợi và mưu mô đen tối của Tể tướng Phôn Van-te (cha Phéc-đi-năng). Vở kịch có hai kiểu xung đột: Xung đột giữa Phéc-đi-năng và Luy-dơ là xung đột giữa cái cao cả với cái cao cả; xung đột giữa tình yêu (của Phéc-đi-năng và Luy-dơ) với âm mưu (của Phôn Van-te) là xung đột giữa cái cao cả với cái thấp kém.

- Hành động kịch trong văn bản: Để xác định được hành động kịch trong văn bản, em cần ôn lại khái niệm hành động kịch trong phần Tri thức Ngữ văn (khái niệm này em cũng đã được học khi thực hành đọc hài kịch ở lớp 8).

Hành động của Phéc-đi-năng ở phần đầu văn bản vừa thể hiện sự nghi ngờ, chất vấn, nhục mạ vừa thể hiện sự cay đắng, tiếc nuối với mối tình của hai người; ở phần cuối văn bản là thể hiện sự ân hận, đau xót tột cùng. Các hành động này được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại và độc thoại của chàng.

Hành động của Luy-dơ ở phần đầu văn bản là cố tình giữ kín sự thật, nhẫn nhịn để giữ lời thề nhưng vẫn một mực bày tỏ sự cảm thương Phéc-đi-năng; ở phần sau của văn bản là sự hốt hoảng, đau đớn khi hiểu cái chết đến gần buộc phải xoá bỏ lời thề và nói ra sự thật.

b.

* Ý thứ nhất: màn kịch thể hiện nhiều mâu thuẫn, chẳng hạn:

- Mâu thuẫn giữa hai nhân vật chính, một người muốn biết rõ sự thật, một người buộc phải che giấu sự thật.

- Mâu thuẫn trong từng nhân vật: trong nhân vật Phéc-đi-năng là mẫu thuẫn giữa tình yêu dành cho Luy-dơ và sự căm giận đối với nàng (vì nghĩ nàng là kẻ phản bội tình yêu), là hành động đầu độc người yêu và nỗi ân hận; trong nhân vật Luy-dơ là tình yêu và bổn phận, là sự mê muội ban đầu vì lời thề và sự tỉnh táo về sau.

- Mâu thuẫn giữa tình yêu của Phéc-đi-năng và Luy-dơ với sự độc đoán, tàn bạo của Tể tướng Phôn Van-te.

- …. 

* Ý thứ hai: những mâu thuẫn này đan cài phức tạp. Tuy nhiên, mọi mâu thuẫn nêu trên đều nảy sinh từ mâu thuẫn cốt lõi: mâu thuẫn giữa tình yêu của Phéc-đi-năng, Luy-dơ với sự độc đoán, tàn bạo của Tể tướng Phôn Van-te.

c. Những nét tính cách nổi bật của nhân vật Phéc-đi-năng:

- Một chàng trai trọng danh dự, tính cách mạnh mẽ, nhưng cũng rất dễ bị tổn thương, dễ hiểu lầm trong tình yêu.

- Một nhân vật chứa đầy mâu thuẫn, có đời sống nội tâm phong phú, phức tạp.

d. Tuỳ cảm nhận, em có thể nói đến nét tính cách của Luy-dơ mà mình cho là nổi bật; sau đó phân tích một số chi tiết trong văn bản để làm rõ nét tính cách đó. Có thể nêu cảm nhận về một hay một số nét tính cách đáng chú ý sau đây rồi phân tích:

- Luy-dơ là hiện thân của những số phận bi kịch, oan ức.

- Luy-dơ là hiện thân cho sự hiền thục, trong trắng.

- … 

đ. Nhận xét về:

- Ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật trong văn bản:

Trong màn kịch, ngôn ngữ của Luy-do là ngôn ngữ đối thoại (hoặc hành vi im lặng).

Ngôn ngữ đối thoại của Luy-dơ cho thấy nàng trước sau là người hiền thục, vị tha, kính Chúa. Dù bị Phéc-đi-năng nặng lời xúc phạm, nàng vẫn tỏ ra thương cảm đối với anh và ngay cả khi biết mình sắp chết oan, nàng vẫn rộng lòng tha thứ cho người yêu.

Ngôn ngữ của Phúc-đi-năng cũng là ngôn ngữ đối thoại, thể hiện một cách sinh động những mâu thuẫn, giằng xé nội tâm của một chàng trai trọng danh dự, mạnh mẽ nhưng dễ tổn thương.

– Vai trò của ngôn ngữ đối thoại trong việc thể hiện tính cách nhân vật:

Trong văn bản kịch, ngoài những chỉ dẫn nghệ thuật, ngôn ngữ chủ yếu là lời thoại (đối thoại và phần nào độc thoại). Vì thế, lời thoại luôn có vai trò rất quan trọng. Ở màn kịch trên cũng vậy.

Lời thoại của nhân vật Phéc-đi-năng có tác dụng thể hiện những trạng thái nội tâm phức tạp và tính cách của chàng trong những tình huống cụ thể.

Phéc-đi-năng có những lời thoại rất cay nghiệt đối với Luy-dơ:

Phéc-đi-năng: – Xéo đi, xéo đi! Lánh xa ta đi hỡi cặp mắt dịu dàng thảm thiết này! Trời, ta sa ngã mất! Hỡi con rắn độc, hãy hiện nguyên hình xấu xa khủng khiếp của ngươi đi! Hỡi loài trùng đốn mạt, hãy chồm lên người ta đi! Hãy trải ra trước mắt ta và hãy vươn cao lên đến tận trời những khúc rắn quái gở của ngươi đi! Hãy phơi bày ra đây phần xấu xa, gớm ghiếc mà vực thẳm địa ngục vẫn hằng ngắm nghía ngươi... Đừng là thiên thần nữa! Muộn quá rồi! Ta phải giẫm nát ngươi như một con rắn độc hoặc phải chìm đắm trong tuyệt vọng... Ôi thương hại thay cho ta!

Chàng trai này từng có lúc thốt lên những lời thoại thiết tha, tiếc nuối:

 Phéc-đi-năng (Chạy lại ôm cổ Luy-do khóc nức nở): – Thêm một lần nữa, Luy-dơ! Thêm một lần nữa thôi, như ngày chúng ta hôn nhau lần đầu tiên, khi lần đầu tiên em thì thầm gọi “anh”! Ôi, trong giây phút ấy đã chứa đựng hạt giống của những niềm vui vô cùng vô tận không lời nào diễn tả nổi, trong một nụ hôn... Khi ấy vĩnh cửu đã hiện ra trước mắt chúng ta tưng bừng như một ngày tháng Năm rực rỡ. Khi ấy, những thiên kỉ hoàng kim đã nhảy múa vui như những đôi tình nhân trước linh hồn chúng ta! Ôi, khi ấy anh đã là kẻ hạnh phúc. Luy-dơ! Luy-dơ sao em nỡ làm điều ấy đối với anh?

Nhưng cũng có không ít lời thoại rất sắt đá, phũ phàng:

Phéc-đi-năng: – Nhanh chóng đến thế sao? Cái giống đàn bà các người thật là điều bí ẩn muôn đời! Thân hình mỏng manh của họ vững vàng chẳng núng trước những tội ác có sức đục khoét loài người đến tận gốc rễ, vậy mà một hạt nhân ngôn đã đủ quật ngã họ rồi!

Lời thoại của Luy-do cũng vậy. Có những lời thoại cho thấy lòng thương yêu cha mẹ, quý trọng bản thân của nàng, chẳng hạn:

Luy-dơ: – Còn mẹ tôi... còn cha tôi... Lạy Chúa cứu thế xin thương xót cha mẹ tôi! Ôi, người cha tội nghiệp vô vọng của tôi! Không còn cứu được nữa sao? Cuộc đời non trẻ của tôi không còn cứu được nữa sao? Tôi phải ra đi rồi ư?

Nhiều lời thoại thể hiện vẻ đẹp tâm hồn trong trắng, vị tha thuần khiết của nàng:

Luy-dơ: – Phéc-đi-năng! Phéc-đi-năng! Ôi, bây giờ em không thể câm lặng được nữa... cái chết... cái chết cởi hết mọi lời thề... Phéc-đi-năng ơi, lúc này đây, trong khắp cõi trời đất này không còn ai khốn khổ hơn anh nữa! Anh Phéc-đi-năng ơi, em chết oan!

e.

- Nguyên nhân dẫn đến bi kịch tình yêu của Phéc-đi-năng và Luy-dơ trong văn bản là do thái độ độc đoán, vụ lợi, âm mưu và thế lực đen tối của tể tướng Phôn Van-te (cha Phéc-đi-năng).

- Thông điệp của màn kịch có thể diễn đạt khác nhau nhưng điểm chung là lời nhắc nhở, cảnh báo. Chẳng hạn: Hãy lên tiếng phản đối sự áp đặt độc đoán, vụ lợi lên tình yêu đôi lứa; hãy trân trọng và bảo vệ tình yêu tự do, trong sáng của con người;...

Trong xã hội ngày nay, những ông bố kiểu như Tể tướng Phôn Van-te có thể đã ít đi, tình trạng áp đặt độc đoán, vụ lợi của cha mẹ lên tình yêu đôi lứa của con cái có thể không còn gay gắt như thời Si-le viết Âm mưu và tình yêu nữa; nhưng tinh thần tôn trọng quyền sống của con người, nhất là sự trân trọng và bênh vực tình yêu tự do, trong sáng của con người trong thông điệp của tác phẩm vẫn còn có giá trị.

Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Bài 9: Những bài học từ trải nghiệm đau thương (Kịch - bi kịch) hay khác:

Xem thêm giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 9 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác: