X

Soạn văn 9 Cánh diều

Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ - ngắn nhất Cánh diều


Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ trang 23, 24, 25, 26 ngắn nhất mà vẫn đủ ý được biên soạn bám sát sách Ngữ văn lớp 9 Cánh diều giúp học sinh soạn văn 9 dễ dàng hơn.

Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ - Cánh diều

1. Định hướng:

1.1. Phân tích một tác phẩm thơ là nội dung đã được học ở lớp dưới (Bài 7, sách Ngữ văn 8, tập hai). Để tích hợp với nội dung đọc hiểu ở Bài 1, yêu cầu phân tích một tác phẩm thơ gắn với ngữ liệu các bài đọc hiểu về thơ và thơ song thất lục bát nên các em cũng cần ôn lại kiến thức, kĩ năng đã học ở các bài đọc hiểu.

1.2. Để viết bài văn phân tích một tác phẩm thơ, các em cần chú ý:

– Đọc kĩ bài thơ được phân tích, chú ý đặc điểm thể loại, tác giả và bối cảnh ra đời (nếu cần thiết) của tác phẩm.

– Phân tích nội dung và các yếu tố hình thức nghệ thuật nổi bật của bài thơ. Chỉ ra mối quan hệ giữa hình thức và nội dung; từ đó, làm rõ giá trị của các yếu tố hình thức trong việc thể hiện nội dung, chủ đề của tác phẩm.

– Thực hiện các bước viết bài nghị luận theo quy trình bốn bước: chuẩn bị, tìm ý và lập dàn ý, viết, kiểm tra và chỉnh sửa.

– Suy nghĩ, nhận xét về ý nghĩa, giá trị và sự tác động của tác phẩm đối với người đọc cũng như với cá nhân em.

2. Thực hành

Đề bài (trang 24 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến.

a. Chuẩn bị

– Đọc kĩ đề bài, xác định các yêu cầu cần thực hiện.

– Xem lại kiến thức ngữ văn về thể loại thơ song thất lục bát đã học; đọc lại bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến; chú ý những bài thơ viết về tình bạn thắm thiết, thuỷ chung.

– Xác định nội dung và hình thức nghệ thuật nổi bật nhất của bài thơ (chú ý đặc điểm và tác dụng của thể thơ song thất lục bát trong việc biểu đạt nội dung).

b. Tìm ý và lập dàn ý

– Tìm ý cho bài viết bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi sau:

+ Bối cảnh, đề tài và chủ đề của bài thơ Khóc Dương Khuê là gì?

+ Nghệ thuật của bài thơ Khóc Dương Khuê có gì đặc sắc?

+ Các yếu tố hình thức nghệ thuật ấy đã làm nổi bật chủ đề bài thơ như thế nào?

+ Qua bài thơ Khóc Dương Khuê, có thể thấy tinh thần, tình cảm và thái độ của người viết đối với người bạn của mình như thế nào?

+ Có thể học được gì về tình bạn từ bài thơ Khóc Dương Khuê

– Lập dàn ý bằng cách sắp xếp các ý đã tìm được theo bố cục ba phần:

Mở bài: Giới thiệu khái quát về đề tài và giá trị của bài thơ Khóc Dương Khuê.

Thân bài:

Lần lượt nêu các ý đã tìm được theo một trình tự hợp lí, chẳng hạn:

+ Nêu bối cảnh và sự kiện tạo ra nguồn cảm xúc cho tác giả viết bài thơ.

+ Chủ đề của bài thơ.

+ Phân tích các yếu tố hình thức và tác dụng của chúng trong việc biểu đạt nội dung bài thơ.

+ So sánh với một số bài thơ viết về cùng đề tài (nếu có) để làm rõ sự độc đáo của bài Khóc Dương Khuê.

Kết bài: Khái quát giá trị bài thơ và nêu tác động của bài thơ này đối với cá nhân em.

c. Viết

Dựa vào dàn ý đã làm để viết bài nghị luận phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê. Trong khi viết, chú ý vận dụng cách so sánh trong phân tích thơ.

d. Kiểm tra và chỉnh sửa

- Đọc lại bài văn đã viết

- Việc kiểm tra, chỉnh sửa cần chú ý những yêu cầu chung sau đây:

Phương diện kiểm tra

Câu hỏi kiểm tra

Nội dung

Mở bài: Đã giới thiệu khái quát nội dung văn bản chưa?

Thân bài:

+ Có nêu được các nội dung cụ thể làm rõ cho luận đề đã nêu ở mở bài không?

+ So với dàn ý, bài viết còn thiếu ý nào? Các ý có được sắp xếp phù hợp không? Ý nào trong bài trùng lặp nhau?

+ Có nêu được các lí lẽ và bằng chứng tiêu biểu, thuyết phục không?

+ Đã kết hợp được các phương thức biểu đạt và các thao tác khác trong khi viết hay chưa?

+ Có nêu được những suy nghĩ và cảm xúc riêng không?

Kết bài:

Đã khái quát, tổng hợp vấn đề được trình bày chưa?

 

 

Hình thức

+ Bài viết đã có đủ ba phần chưa? Độ dài của các phần có cân đối không?

+ Bài viết còn mắc những lỗi gì về trình bày, trích dẫn, dùng từ, đặt câu, chính tả...?

 

 

Đánh giá chung

+ Bài viết đáp ứng yêu cầu ở mức độ nào?

+ Em thấy thuận lợi hoặc khó khăn nhất khi thực hiện phần nào trong khi thực hành viết? Vì sao?

+ Thành công nhất của bài viết là gì?

* Bài văn tham khảo:

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê sinh thời là hai người bạn cực kỳ thân thiết và thấu hiểu lẫn nhau, cùng làm quan dưới thời Nguyễn trong buổi đất nước có nhiều biến đổi, khiến các nhà trí thức đương thời có phần bất lực và chán nản, càng khiến hai người có chung niềm tâm sự, họ lại càng trở nên thân thiết hơn cả. Sự gắn bó, tri kỷ ấy quả thực là hiếm có của đời người, chính vì lẽ ấy nên khi nghe hung tin Dương Khuê mất vì bệnh nặng, Nguyễn Khuyến đã hết sức bàng hoàng và đau buồn bởi từ nay chẳng còn lấy một người tri âm, tri kỷ cùng ông chia sẻ những nỗi niềm riêng trong cuộc đời. Nguyễn Khuyến đã viết bài thơ Khóc Dương Khuê để tỏ nỗi lòng thương tiếc, xót xa của mình dành cho người bạn quá cố.

Dương Khuê (1839-1902), tự Giới Nhu, hiệu Vân Trì, là người văn hay chữ tốt, đỗ Cử Nhân cùng khóa với Nguyễn Khuyến, đỗ Tiến sĩ năm 1868 rồi ra làm quan, tuy nhiên cuộc đời làm quan của ông có nhiều thăng trầm bất định. Chán nản với cuộc đời quan chức không mấy suôn sẻ ông cáo quan lúc 58 tuổi, lui về vui vầy với rượu, thơ, đàn xướng. Các tác phẩm của ông gồm có cả thơ chữ Hán, nhưng ca trù lại mang lại cho ông sự nổi tiếng hơn cả ví như có bài Gặp lại cô đầu cũ.

Mở đầu bài thơ là sự hoang mang, bàng hoàng của Nguyễn Khuyến về sự ra đi đột ngột của Dương Khuê bạn mình.

"Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta."

Nguyễn Khuyến gọi bạn mình bằng hai từ "Bác Dương" rất đỗi gần gũi, thân thiết, lại cũng thể hiện những tình cảm trân trọng, quý mến vô cùng của những người đồng trang lứa, cách gọi ấy tựa như lúc Dương Khuê vẫn còn sống mà hai người vẫn thường xưng hô với nhau. Cụm từ "Thôi đã thôi rồi", từ "thôi" đầu thể hiện nỗi nuối tiếc xót xa khi vụt mất một thứ quan trọng nhất cuộc đời của Nguyễn Khuyến, từ "thôi" thứ hai là ngụ ý về sự ra đi của Dương Khuê. Nỗi đau mất bạn ấy là nỗi đau "ngậm ngùi" âm ỉ cháy trong lòng, người ra đi khiến người ở lại phải day dứt, buồn thương vô cùng, nỗi đau ấy không chỉ khu trú trong tâm hồn tác giả mà tựa như nước chảy mây bay, lan tỏa khắp cùng trời cuối đất, rộng lớn vô cùng. Nhịp thơ, giọng điệu ở hai câu đầu nhẹ nhàng, âm thầm như dàn trải, mang đến cảm giác trầm buồn, càng diễn tả sâu sắc nỗi đau mất bạn của Nguyễn Khuyến.

Trong sự mất mát to lớn ấy, Nguyễn Khuyến dần hồi tưởng về khoảng thời gian hai người còn bầu bạn, vui vầy.

"Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi tầng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đấu thăng chẳng dám tham trời"

Nhớ làm sao ngày mới quen biết cùng nhau đỗ khoa cử, lại cùng nhau "sớm hôm" bàn luận chuyện đời, mối quan hệ, tình bạn tri kỷ của Dương Khuê và Nguyễn Khuyến là tình cảm kính trọng, quý mến, thấu hiểu lẫn nhau, "kính yêu từ trước đến sau". Việc được gặp gỡ và kết thành tri kỷ với Dương Khuê, Nguyễn Khuyến rất đỗi coi trọng, ví như "duyên trời" định sẵn, là mối cơ duyên trăm năm có một, đâu phải dễ dàng. Trước nỗi đau xót, nỗi tiếc thương vô hạn, Nguyễn Khuyến lại ngược bước về những năm tháng huy hoàng tuổi trẻ của ông với người bạn quá cố. Còn đâu những năm tháng trẻ khỏe sung sức, hết "chơi nơi dặm khách", lại vượt núi leo đồi nghe tiếng suối róc rách, rồi những buổi thảnh thơi trên "tầng gác cheo leo" cùng nhau nghe những cô đầu ngân nga câu hát ả đào êm ái. Lại nhớ những ngày thâu đêm suốt sáng, cùng tri kỷ sẻ chia chén rượu quý thơm nồng, cùng nhau làm thơ, lại cùng nhau ngâm thơ, rồi bàn luận qua lại trước sau chau chuốt. Rồi những ngày cùng nhau vùi trong phòng sách nghiên cứu Tam phần ngũ điển để thấu hiểu cái đạo lý của người xưa. Rồi cả quãng đời cùng nhau đỗ khoa cử, cùng nhau đứng ra phụng sự triều đình, cái mũ ô sa trên đầu dẫu có nặng trăm bề, dẫu có rối ren và nhiều cớ sự bất mãn, đôi bạn tri kỷ cũng chỉ biết san sẻ, thấu hiểu, cùng sát cánh vượt qua chứ nào dám than thở trước sau. Biết bao kỷ niệm quá đỗi đẹp đẽ, như mới chỉ ngày hôm qua đây thôi, nhưng nay người đã lại vội về chốn tây thiên cực lạc, Nguyễn Khuyến nghĩ mà thêm bồi hồi, thêm xót xa muôn phần.

Thời trai trẻ, có sức, có lực lại có cả ý chí ngoan cường là thế, buổi về già mọi thứ đã không còn được như trước, nhưng tình cảm tri kỷ của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vẫn không hề chuyển dời, thậm chí còn vì xa cách mà ngày càng thêm sâu sắc, gắn bó hơn cả.

"Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can"

Khi tuổi đã cao, sức đã yếu thì những thú vui tuổi trẻ dần trở thành những thứ xa xỉ, thậm chí vì xa cách mà cả hai người mãi mới có bận gặp nhau một lần, đấy cũng là 3 năm về trước. Tuy nhiên dẫu có xa, dẫu có lâu không gặp thì tình bạn gắn bó keo sơn vẫn mãi ngự trị mãi trong ngực trái của cả hai người Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, chưa một lần nguội lạnh. Họ vẫn thân thiết như xưa "Cầm tay hỏi hết xa gần", dường như bao chuyện lâu nay không được có người san sẻ đều tuôn ra hết trong lần gặp cuối ấy, được thấy bạn mình vẫn khỏe mạnh, "tinh thần chưa can" là niềm hạnh phúc vô bờ bến của những người tri kỷ. Có thể thấy rằng dẫu về già, không còn gặp nhau được mấy lần nhưng Nguyễn Khuyến vẫn giữ gìn vẹn nguyên cái tình cảm tri âm ấy, vẫn luôn hằng tưởng nhớ về người bạn tuổi trẻ thường xuyên chia sẻ tâm tình, cùng chung khổ nạn.

Hồi tưởng càng nhiều, ký ức càng tươi đẹp bao nhiêu thì quay trở về với hiện thực tác giả lại càng phải đối mặt với hiện thực phũ phàng và đau xót bấy nhiêu, những mộng tưởng của ngày xưa đã vĩnh viễn đi vào quá khứ. Nguyễn Khuyến buộc phải đối mặt với hiện thức rằng Dương Khuê đã ra đi mãi mãi, ông đã mất đi người bạn quý giá nhất cả cuộc đời, giờ chỉ còn lại tấm thân già cô đơn giữa thời thế loạn lạc.

"Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời"

Ông không khỏi ngậm ngùi, đau xót một nỗi tiếc thương rằng tại sao Dương Khuê vốn nhỏ tuổi hơn ông, lại bệnh tật cũng sau ông, thế mà chẳng hiểu sao "bác vội về ngay", tin ấy khiến cho Nguyễn Khuyến bàng hoàng "chân tay rụng rời", vì không thể tin nổi trước hung tin như sét đánh ngang tai ấy. Giờ đây bạn hiền đã về với miền cực lạc, để lại Nguyễn Khuyến một thân già với nỗi đau đớn, hụt hẫng và hoang mang vô cùng.

"Ai chẳng biết chán đời là phải,
Vội vàng sao đã mải lên tiên;
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn."

Bạn hiền đã mất, còn lại mình Nguyễn Khuyến với nỗi cô đơn, trống vắng thì thiết tha gì những thú vui từng một thời say đắm, rượu ngon cũng trở nên vô vị, thú vui làm thơ cũng dần chán nản, bởi còn đâu người hợp ý để vui vầy, sẻ chia nữa. Tình cảm thắm thiết tri âm, tri kỷ ấy sánh ngang với điển cố của người xưa như tình bạn giữa Trần Phồn - Từ Trĩ, như Tử Kỳ - Bá Nha, sâu nặng, ân nghĩa vô cùng.

Quay về với thực tại, trước vong linh người bạn hiền quá cố, Nguyễn Khuyến cuối cùng cũng đã thoát khỏi cái hồi tưởng xa xăm, trở về với hiện thực đau đớn, xót xa. Nhưng dẫu Dương Khuê có chết đi, thì tình cảm giữa hai người vẫn trường tồn mãi mãi, là thứ trân quý nhất trong cuộc đời mà Nguyễn Khuyến hằng trân trọng.

"Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!"

Nỗi đau đớn ấy đã không thể chảy thành hàng lệ dài, mà Nguyễn Khuyến giấu nó vào trong góc sâu nhất của trái tim, để tưởng nhớ mãi về một người bạn hiền tri âm tri kỷ. Những câu thơ cuối là lời buông thật nhẹ nhàng, buồn tủi, là sự chấp nhận của tâm hồn thi sĩ trước sự ra đi của bạn mình. Thôi đành hẹn kiếp sau lại được làm tri kỷ, kiếp này duyên trời coi như đã hết.

Khóc Dương Khuê là bài thơ cảm động và sâu sắc của Nguyễn Khuyến viết để tưởng nhớ về người bạn quá cố, qua đó thấy được những tình cảm đáng quý, thiết tha sâu nặng giữa những người tri kỷ, đồng thời ca ngợi tình bạn thiêng liêng, trăm năm có một của nhà thơ. Bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ êm đềm, chậm rãi, ngôn từ giản dị, tác gỉa tinh tế sử dụng các điển tích điển cố một cách khéo léo đã làm tăng sức hấp dẫn của bài thơ, diễn tả thành công nỗi buồn của thi nhân đầy xót xa, suy tư và trầm lắng.

2.2. Rèn luyện kĩ năng viết: So sánh trong phân tích thơ

a) Cách thức

So sánh là chỉ ra sự giống nhau, khác nhau của hai hay nhiều tác phẩm, làm nổi bật sự độc đáo, sáng tạo của nhà thơ. Về nguyên tắc, có thể so sánh điểm giống và khác nhau ở tất cả các cấp độ, từ nội dung (đề tài, chủ đề, cảm hứng, tư tưởng...) đến hình thức tác phẩm (nhan đề, bố cục, chi tiết, vần, nhịp, hình ảnh, các thủ pháp nghệ thuật ngôn ngữ...); có thể so sánh tác phẩm của hai tác giả nhưng cũng có thể so sánh hai tác phẩm của cùng một tác giả.

Trong phân tích thơ, để làm nổi bật cái hay, cái đẹp của tác phẩm được phân tích, người viết thường so sánh với các tác phẩm cùng đề tài, chủ đề...

b. Bài tập

Đề bài (trang 26 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Hãy viết đoạn văn so sánh, nêu lên một điểm giống nhau và một điểm khác nhau giữa văn bản Sông núi nước Nam với văn bản Nước Đại Việt ta (trích Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi).

* Bài thơ tham khảo:

Nếu "Sông núi nước Nam" chỉ khẳng định nước có chủ nghĩa thì có vua Nam ở thì ở bài "Nước Đại Việt ta", Nguyễn Trãi lại chứng minh nước nhà có độc lập dân tộc bằng việc khẳng định rõ nước ta có quốc hiệu, có nền văn hiến lâu đời, có bề dày lịch sử riêng của dân tộc, lãnh thổ riêng, có chủ quyền, chế độ và phong tục riêng. Qua đây, ta cũng đã thấy được văn bản "Nước Đại Việt ta" có học thuyết về quốc gia hơn "Sông núi nước Nam". Đồng thời, người đọc cũng thấy được giọng nói hào hùng, lời văn nhịp nhàng, ngân vang của tác giả. Văn bản có đoạn đầu bài là một sự đối lập từ khái quát cho đến cụ thể, lại còn giàu chứng cớ lịch sử khiến cho ai ai là con dân đất Việt cũng có cảm xúc tự hào. Có lẽ, cả 2 văn bản đều rất hay và thể hiện chủ quyền nước ta, cũng đều được coi là bản tuyên ngôn độc lập của nước ta nhưng "Nước Đại Việt ta" lại có những điều tiến bộ, phát triển hơn với tính toàn diện, sâu sắc của từng lời thơ trong nó. Phải chăng, càng ngày càng về sau thì con người ta lại càng phát triển, thông minh và tốt đẹp hơn, điều đó đã được chứng minh qua việc ta so sánh "Sông núi nước Nam" và "Nước Đại Việt ta".

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 9 Cánh diều ngắn nhất, hay khác: