X

Soạn văn lớp 10 Cánh diều

Top 20 Phân tích nhân vật Xúy Vân (hay nhất)


Haylamdo biên soạn và tổng hợp trên 20 phân tích nhân vật Xúy Vân trong vở chèo Xúy Vân giả dại (Trích chèo Kim Nham) hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 20 Phân tích nhân vật Xúy Vân (hay nhất)

Phân tích nhân vật Xúy Vân - mẫu 1

Vở chèo "Kim Nham" được đánh giá là một trong những vở chèo tiêu biểu và hay nhất của nền chèo cổ Việt Nam. Trong đó, "Xúy Vân giả dại" là trích đoạn nổi bật được khán giả vô cùng yêu thích. Những mâu thuẫn nội tâm của nhân vật Xúy Vân đã được tác giả dân gian khắc họa đầy đặc sắc qua đoạn trích.

Trước khi đi sâu vào phân tích tâm trạng nhân vật, ta cần làm rõ nguyên nhân dẫn đến hành động giả dại của Xúy Vân. Điều này bắt nguồn từ việc sau khi kết duyên với Kim Nham, nàng luôn phải sống trong cảnh đơn côi, xa chồng. Trong khoảng thời gian chờ Kim Nham trở về, Xúy Vân gặp được Trần Phương và bị hắn tán tỉnh, dụ dỗ. Trước những lời ngon ngọt, Xúy Vân xiêu lòng, giả điên để được chồng trả lại tự do và đi theo nhân tình. Đoạn trích "Xúy Vân giả dại" chính là cảnh nàng dựng lên màn kịch điên loạn nhằm che mắt chồng. Trong lời xưng danh, Xúy Vân tự giới thiệu rằng:

"Chẳng giấu gì Xúy Vân là tôi,

Tuy dại dột, tài cao vô giá,

Thiên hạ đồn rằng tôi hát hay đã lạ,

Ai cũng gọi là cô ả Xúy Vân.

Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương,

Nên đến nỗi điên cuồng, rồ dại".

Chỉ một đoạn nhỏ, nhưng người đọc, người xem đã biết được tên tuổi, tài năng của nhân vật. Xúy Vân nhận thấy mình tuy dại dột song tài cao, được thiên hạ đồn thổi có tài hát hay. Không những vậy, trong lời giới thiệu, nàng thừa nhận bản thân "Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương,/ Nên đến nỗi điên cuồng, rồ dại.". Qua đoạn trích trên, ta phần nào hiểu được tính cách, tình cảnh của nhân vật.

Rõ ràng, trong toàn bộ trích đoạn, ngôn ngữ, hành động của nhân vật đều bộc lộ những mâu thuẫn giằng xé trong nội tâm. Trước hết, đó là tâm trạng đau đớn, tủi hổ, tự cảm thấy bơ vơ, lỡ làng trong chuyện tình cảm. Nàng đau khổ tới mức phải kêu lên và than vãn cùng ông Tơ, bà Nguyệt. Nàng đứng gọi đò mà tiếng gọi cứ ngân vang, không ai đáp lại "Tôi kêu đò, đò nọ không thưa". Càng chờ đợi, nhân vật càng rơi vào tuyệt vọng, "càng trưa chuyến đò", buộc nàng phải nhún mình, chiều theo ý người khác:

"Nên tôi phải lụy đò,

Cách con sông nên tôi phải lụy đò,

Bởi ông trời tối, phải lụy cô bán hàng."

Nó cho thấy tình cảnh đáng thương mà nàng phải chịu. Vì số phận đưa đẩy nên nàng buộc lòng phải theo. Tuy nhiên, ngay cả khi chấp nhận rồi thì hạnh phúc cũng không được như mong muốn. Do vậy, nàng đã đi đến quyết định chia li "Chả nên gia thất thì về,/ Ở làm chi mãi cho chúng chê, bạn cười.".

Xúy Vân đi từ đau khổ sang bẽ bàng, xấu hổ. Nàng cầu xin mọi người thông cảm bởi bản thân không hề lẳng lơ, phóng đãng, chỉ vì gặp phải người trăng hoa nên mới không giữ nổi mình "Tôi chắp tay lạy bạn đừng cười/ Tôi không trăng gió lại gặp người gió trăng.". Nhận thức được hành động sai trái ấy, nàng khuyên mọi người phải phải giữ gìn đạo đức: "Gió trăng thời mặc gió trăng,/ Ai ơi giữ lấy đạo hằng chớ quên". Nàng nhắn nhủ mọi người nhưng cũng là nhắc nhở đến bản thân.

Không những thế, Xúy Vân còn bộc lộ nỗi niềm đắng cay, bực tức của mình trong điệu hát con gà rừng. Nàng nhận mình là con gà rừng ngu ngơ, ăn lẫn với đám "công" cao xa, đẹp đẽ. Xúy Vân dùng hình tượng "con gà", "con công" để diễn tả sự cô đơn, lạc lõng. Xét cả về địa vị xã hội lẫn vai trò trong gia đình, nàng nhận thấy bản thân thấp kém hơn so với Kim Nham. Đến nỗi, phải thốt lên rằng: "Đắng cay chẳng có chịu được, ức!". Câu hỏi tu từ "Mà để láng giềng ai hay?" đã tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của nàng. Xúy Vân không thể chia sẻ nỗi khổ với bất kì ai. Đặc biệt, điệp ngữ "Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyên" càng nhấn mạnh nỗi bực tức, uất ức của nàng trước sự sắp đặt của mẹ cha. Dù cuộc sống có bất hạnh nhưng nàng chưa bao giờ ngừng ước mơ, khát vọng về một cuộc sống gia đình hạnh phúc:

"Chờ cho bông lúa chín vàng,

Để anh đi gặt, để nàng mang cơm."

Nàng mong chờ cho đến khi cây lúa vàng rực trên khắp cánh đồng để chồng đi gặt, còn vợ mang cơm. Rõ ràng, Xúy Vân cũng muốn làm một người dâu hiền, vợ thảo. Điều này, được thể hiện qua hành động múa điệu bắt nhện, xe tơ, dệt cửi đầy sinh động, khéo léo. Tuy nhiên, cuộc sống bình dị, giản đơn ấy lại chỉ là ước mơ xa vời.

Lối ngâm nga, chậm rãi trong đoạn nói điệu sử rầu, hát sắp đã diễn tả tâm trạng ấm ức. Nàng thương người tình đến mất ngủ rồi ví phận mình như: "Con cá rô nằm vũng chân trâu/ Để cho năm bảy cần câu châu vào!". Cái không gian chật hẹp, tù túng, luôn ẩn chứa nhiều bất trắc rủi ro làm nàng cảm thấy bất an. Tác động từ bên ngoài làm nàng cảm thấy bị hành hạ, khổ sở, không còn tự do. Cuối cùng, sự đau khổ lên đến tột cùng khiến nàng không giữ nổi tỉnh táo mà phát điên. Đoạn hát ngược khắc họa vô cùng chân thật, sinh động tâm trạng điên loạn của nhân vật:

"Chiếc trống cơm, ai khéo vỗ nên bông,

Một đàn các cô con gái lội sông té bèo.

[...] Cưỡi con gà mà đi đánh giặc!"

Những hình ảnh, sự vật được liên hệ một cách bất thường, không hợp lí. Chỉ có người dở điên dở dại mới không phân biệt được ngược, xuôi. Câu nói vô nghĩa kết hợp với hành động vừa đi, vừa cười điên dại càng làm nổi bật tâm trạng rối bời, tuyệt vọng, mất phương hướng.

Theo dõi toàn bộ văn bản, Xúy Vân vừa đáng thương, vừa đáng trách. Đáng thương bởi nàng rơi vào cuộc hôn nhân sắp đặt, không tình yêu. Đáng trách vì nàng không biết giữ phẩm hạnh. Như vậy, qua đoạn trích, tác giả dân gian muốn đề cao sự chung thủy trong mối quan hệ vợ chồng. Đồng thời, bộc lộ sự cảm thông đối với thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Khát vọng hạnh phúc của Xúy Vân là chính đáng nhưng lại không thể thực hiện ở thời kì đề cao nam quyền. Hiểu và thông cảm cho nhân vật, ta nhận ra được nội dung, ý nghĩa sâu sắc, nhân văn của đoạn trích.

Phân tích nhân vật Xúy Vân - mẫu 2

Chèo là loại hình kịch hát dân gian có tính chất tổng hợp, phổ biến nhất ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trước đây. Chèo là sản phẩm của các tầng lớp trí thức bình dân nên dù vô thức hay hữu thức, nội dung của chèo thường đề cao mộng công danh, học hành đỗ đạt làm quan, điều mà các trí thức xưa thường theo đuổi. Vở chèo "Kim Nham" là một trong những tác phẩm nổi tiếng của sân khấu chèo. Trong đó trích đoạn "Xúy Vân giả dại" là một trích đoạn tiêu biểu mà đã được đưa vào chương trình học của học sinh trung học phổ thông. "Xúy Vân giả dại" là trích đoạn thể hiện tập trung được bi kịch tình yêu và nội tâm đầy mâu thuẫn của nhân vật Xúy Vân một cách đặc sắc.

Xúy Vân là một cô gái xinh đẹp, đảm đang và nàng lúc nào cũng mang trong mình khát khao hạnh phúc. Nhưng trong chế độ phong kiến xưa, Xúy Vân nói riêng mà những người con gái sống dưới chế độ ấy nói chung đều không có cái quyền tự định liệu cho hạnh phúc, lựa chọn cho mình tình yêu cũng như đối tượng mà mình cảm mến, mọi chuyện tình yêu, hôn nhân đều do cha mẹ sắp đặt theo quan niệm "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Cuộc hôn nhân của Xúy Vân với Kim Nham đều do một tay của cha mẹ nàng sắp xếp, mà sự sắp đặt này cũng không hề được định liệu sẵn mà hết sức vội vàng, và điều tất yếu là giữa hai người không hề có tình yêu.

Vì luôn ấp ủ những khát khao hạnh phúc nên khi mới về nhà chồng nàng cũng muốn làm một người con dâu ngoan của bố mẹ chồng, một người vợ tốt của Kim Nham, điều này được thể hiện ra ngay lời hát múa của Xúy Vân khi giả dại, nàng mua điệu quay tơ, dệt cửi, vớt bèo, khâu vá...rất sinh động và khéo léo. Những công việc lao động mà Xúy Vân làm hàng ngày chứng tỏ cô hay lam hay làm, đảm đang khéo léo, đẹp người, đẹp nết. Là một cô gái lao động nên ước mong của Xúy Vân thật nhỏ bé, bình thường, cụ thể. Đó là một gia đình có vợ chồng đầm ấm, chồng cày vợ cấy, đến mùa lúa chín thì chồng đi gặt, vợ mang cơm:

Ước mơ của nàng thật bình dị và chính đáng. Nàng sẽ có một cuộc hôn nhân thật hạnh phúc nếu như người đó không phải là Kim Nham, bởi Kim Nham lại là một chàng thư sinh, hoàn toàn trái ngược lại với mong ước bình dị của nàng. Khi về làm dâu nhà Kim Nham, Xúy Vân đã vô cùng thất vọng trước ước mơ gia đình hạnh phúc, "chồng cày vợ cấy", hay "anh đi gặt...em mang cơm" với thực tại chồng mait mê đèn sách, thi cử, bỏ mặc nàng trong nỗi cô đơn, một mình thân đàn bà đảm đương những gánh nặng của gia đình. Cho nên lời hát: "Bông bông dắt, bông bông díu – xa xa lắc, xa xa líu" được lặp đi lặp lại mấy lần, đã phản ánh bằng hình ảnh cụ thể tâm trạng đó.

Nhân duyên của Kim Nham, Xúy Vân ràng buộc, gắn bó, dắt díu với nhau nhưng những ước mơ, ao ước của họ hoàn toàn khác xa nhau, vì vậy mà khó có thể dung hợp, cuộc sống vợ chồng cũng khó có thể hạnh phúc. Tâm trạng ấm ức, bế tắc, cô đơn của Xúy Vân được thể hiện qua hình ảnh: "Con cá rô nằm giữa vũng chân trâu – để cho năm bảy cần câu châu vào" Hình ảnh gợi bóng gió về một không gian nhỏ hẹp, và đầy bất trắc. Đó cũng chính là tình cảnh thực tại của Xúy Vân. Sau mỗi lời bộc bạch lại là điệp ngữ: "Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyên" cho thấy nỗi cô đơn và khát khao hạnh phúc của nàng không thể chia sẻ được bất cứ ai, láng giềng không, mà ngay cả với cha mẹ – người yêu thương và hiểu nàng nhất thì cũng không thể thấu hiểu được nỗi lòng của nàng.

Ước mơ giản đơn nhưng không tìm được người "đồng sàn cộng chẩn" nên Xúy Vân luôn trong tâm trạng u uất, đau buồn. Và cũng trong hoàn cảnh ấy thì nàng đã gặp Trần Phương. Lần gặp gỡ này nàng tưởng đâu đã gặp được người tri kỉ, cảm thông và cũng có những tình cảm yêu mến đối với nàng. Nhưng cuộc đời thật không như là mơ, mà mọi giấc mơ thì đều sẽ tan biến Trần Phương không phải là một người đàn ông tốt. Vì sau khi lừa gạt được tình cảm dại khờ, trong sáng của Xúy Vân thì hắn ta đã xúi Xúy Vân giả điên giả dại để nhà chồng viết giấy từ hôn, khi đó thì hai người sẽ đến với nhau và có một cuộc sống hạnh phúc.

Xúy Vân rất ngây thơ, dại khờ nên tin những lời nói và những lời hứa suông của hắn ta. Để rồi ôm giấc mộng hạnh phúc, nàng đã giả điên, giả dại mong sao Kim Nham có thể bỏ mình. Nhưng Kim Nham không hề bỏ cuộc, chàng đã tìm thầy thuốc giỏi ở khắp các phương về chữa trị cho nàng. Nhưng bệnh của nàng là do cố ý, sắp xếp chứ đâu phải bệnh thật, do đó mà mọi chữa trị đều không có tác dụng gì, các thầy thuốc giỏi dù tài ba đến đâu thì cũng phải bó tay. Đến nước đường cùng Kim Nham mới phải viết giấy từ hôn với nàng. Nhưng khi đã bỏ chồng thành công thì nàng lại phải chịu sự thật nghiệt ngã, đó chính là sự dứt bỏ, phụ tình của Trần Phương. Bởi sau khi nàng bỏ chồng thì hắn ta cũng không lấy nàng như đã hứa mà vứt bỏ nàng như một thứ đồ dùng cũ kĩ.

Sự đả kích ấy quá lớn đối với Xúy Vân, vì không thể chịu đựng được nên nàng từ giả dại sang phát điên vì tình, có thể nói hoàn cảnh của người phụ nữ này vô cùng éo le, tuy đáng trách khi bỏ Kim Nham theo Trần Phương nhưng nàng cũng vô cùng đáng thương vì tin tưởng người khác một cách đầy dại khờ. Xúy Vân đã tự hát về mình: "Tôi không trăng gió nhưng gặp người gió trăng", nàng không phải người lẳng lơ, nhưng nàng lại không hề có tình yêu với chồng của mình là Kim Nham, Trần Phương là người đầu tiên nàng yêu, hơn nữa còn yêu say đắm.

Vì tình yêu ấy, nàng bất chấp vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến, những định kiến ngặt nghèo của xã hội về phẩm tiết của người phụ nữ. Xã hội ấy không chấp nhận cho người đàn bà bỏ chồng theo trai, nhưng nàng bất chấp tất cả. Nhưng cuối cùng nàng nhận được gì ngoài sự thực đau đớn, khi Trần Phương là một kẻ phụ tình. Nếu Trần Phương không phải là con người lật lọng, tráo trở mà yêu Xúy Vân thật lòng thì có lẽ nàng đã có một cuộc sống hạnh phúc bên người mình yêu, nhưng đã lỡ tin lời của kẻ phụ tình nên nàng "Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại".

Xúy Vân là một cô gái xinh đẹp, đảm đang có tâm hồn trong sáng, và lúc nào cũng mang trong mình khát vọng của tình yêu, của hạnh phúc. Nhưng cuối cùng nàng lại chết một cách đáng thương, chỉ vì tin lời của một kẻ phụ tình mà nàng đã bất chấp mọi rào cản, thậm chí bỏ chồng để chạy theo tiếng gọi của tình yêu.Trích đoạn này thể hiện sự lên án của xã hội đối với hành động "bỏ chồng theo trai" của Xúy Vân nhưng cũng thể hiện sự đồng cảm với tình yêu tự do, trong sáng ấy của nàng.

Phân tích nhân vật Xúy Vân - mẫu 3

Chèo là một loại hình sân khấu dân gian kết hợp nghệ thuật hát, múa, diễn rất hài hoà. Các làn điệu chèo rất phong phú, đa dạng; lời chèo thấm quyện ca dao, dân ca một cách tài tình. Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian lâu đời của dân tộc ta.

Những vở chèo như “Quan Âm Thị Kính”, “Trương Viên”, “Chu Mãi Thần”, “Kim Nhan”… rất nổi tiếng, được các thế hệ ông bà, cha mẹ chúng ta yêu thích. Sau mùa gặt bội thu hay đầu xuân, nhiều làng quê mở hội chèo, tiếng trống chèo rung lên sau luỹ tre xanh, gợi lên bao xao xuyến trong lòng người:

“Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay… ”

(Nguyễn Bính)

Chèo là một loại hình sân khấu dân gian kết hợp nghệ thuật hát, múa, diễn rất hài hoà. Các làn điệu chèo rất phong phú, đa dạng; lời chèo thấm quyện ca dao, dân ca một cách tài tình.

Những trích đoạn như “Thị Mầu lên chùa”, “Xuý Vân giả dại”, “Thị Phương dắt mẹ chồng chạy giặc”, “Tuần Ty gặp đào Huế”… được nhiều người yêu thích, xem mãi vẫn muốn xem, không chán.

Trích đoạn “Xuý Vân giả dại” nằm trong phần hai vở chèo “Kim Nhan”. Xa chồng lâu ngày, Xuý Vân dan díu với Trần Phương, bị dụ dỗ, nàng giả điên giả dại, lập mưu để Kim Nhan li dị. Với ánh mắt bốc lửa, tiếng hát đắm say, với bước đi, điệu lượn, cánh tay múa… như điên cuồng, nhân vật Xuý Vân từng để lại nhiều ấn tượng về lửa tình, về bi kịch tình yêu trong lòng khán giả. Nhiều nghệ sĩ chèo đã thành danh qua vai chèo “Xúy Vân giả dại”.

Mấy câu mở đầu, Xuý Vân xuất hiện (chưa xưng danh) từ nói lệch, đến hát xuôi, cô nàng quay cuồng với tâm trạng dở tỉnh dở điên, dở ngây dở dại. Cất tiếng than bà Nguyệt (trách duyên số) rồi réo cô đồng, rồi cất tiếng hát nói về con đò, con đò tình duyên của một cô gái chờ chồng, đợi chồng đi xa:

“Tôi là đò, đò nhỏ có thưa

Tôi càng chờ, càng đợi, càng trưa chuyển dò”.

Buồn và lo vì tuổi xuân sẽ trôi qua, như kẻ đứng trên bến vắng chờ đò “càng trưa chuyến đò” Những câu hát tiếp theo là những câu thơ lục bát phá thể, biến thể, thể hiện tâm trạng đầy bi kịch của người con gái đã có chồng (như gông đeo cổ) nên phải “lụy dò” lúc muốn “qua sông”, muốn dứt bỏ mối duyên tình cũ:

Chẳng nên gia thất thì về

Ở làm chi nữa chúng chê bạn cười”

Chẳng cần chi úp mở, cô gái thổ lộ mối tình “gió giăng” của mình, với niềm tin sẽ cùng với tình nhân “gió giăng” sống đến đầu bạc răng long, trọn vẹn “đạo hằng” thuỷ chung:

“Gió giăng thì mặc gió giăng

Đôi ta chỉ quyết đạo hằng với nhau”

Tâm trạng “nổi loạn” ấy của Xuý Vân cho đến nay vẫn còn làm cho nhiều khán giả ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Phải chăng đó là sự “bứt phá” đạo tam tòng tứ đức lễ giáo phong kiến của một người con gái đang “nổi loạn”?

Sau tiếng hỏi của vai diễn và tiếng đế hô ứng của khán giả, Xúy Vân mới xưng danh:

“Chẳng giấu gì: tôi tên gọi Xuý Vân

Lấy Kim Nhan nhà khó gian truân

Chồng học vắng thầy ngày mong mỏi

Tôi ngồi từ tối Đợi khách tha nhang

Gái phải nằm hàng

Nghề dại dột… nhưng tài cao vô giá

Thiên hạ đồn tôi hát hay đã lạ"

Ai cũng gọi là cô ả Xuý Vân Phụ Kim Nhan say đắm Trần Phương Nên đến nỗi điên cuồng rồ dại… ”

Rồi Xuý Vân cất điệu “hát con gà rừng” thể hiện một duyên phận trớ trêu, khác nào “Con gà rừng ăn lẫn với công”, vô duyên lấy phải anh chồng vai u thịt bắp, sống cuộc đời lam lũ: “Để anh đi gặt lúa, để cô nàng mang cơm”. Xuý Vân tự cho mình là con quan, cao môn lệnh tộc, còn Kim Nhan là con nhà nghèo hèn, cục mịch tầm thường.

Rồi nàng lại chuyển sang “hát xe chỉ” diễn tả tâm trạng mong nhớ “đợi chờ tình nhân”, ước ao khát khao muốn được cùng Trần Phương sống trong tình yêu hạnh phúc “Áo giải làm chiếu, chăn quây làm mùng”. Hát rồi nói, bộc lộ một tâm trạng cô đơn của cô gái đa tình:

“Tôi thương nhân ngãi

Tôi nhớ nhân tình

Đêm năm canh trằn trọc hoà năm

Than rằng nhân ngãi cựu tình đi đâu”?

Đoạn “hát ngược” đã thể hiện tâm trạng trăm mối tơ vò của một cô gái giả dại mà ngọn lửa tình ngùn ngụt, mà nỗi khao khát dục tình cháy bỏng khôn nguôi. Giả dại, giả điên hay hóa cuồng? Ngược đời trong tự nhiên cũng là nghịch lí trong tâm trạng người con gái đa tình mà thất tình: “Muỗi ấp cánh dơi… Cái trứng gà mày tha con quạ lên ngồi trên cây…”

Rồi Xuý Vân như chợt bừng tỉnh, giải thích rõ cái dại, cái rồ, cái điên của mình:

“Rồi này ai bán thì mua

Dại này ai thấy không mơ mẩn tình

Lúc thì giả cách làm thinh

Lúc thì giả dại ra hình làm điên

Lúc thì tưởng đến nhân duyên

Cho nên đến nỗi phát điên, phát rồ”.

Trần Phương đã qua mụ quán xúi Xuý Vân giả dại để thoả tình giăng gió, gió giăng. Phải xem chèo và nghe chèo mới cảm thấy cái hay màn chèo “Xuý Vân giả dại”. Trích đoạn này đã làm nổi bật tâm trạng đau khổ của một cô gái đa tình mà thất tình, muốn dứt bỏ, đập phá mối quan hệ vợ chồng với Kim Nhan để chạy theo mối tình mới với Trần Phương – một Sở khanh mà nàng đâu biết.

Nỗi khát khao về tình yêu hạnh phúc lứa đôi, nỗi buồn cô đơn của người vợ trẻ trong cảnh ngộ “thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây” của Xuý Vân là điều có thể cảm thông và thương cảm. Xuý Vân giả dại là khởi đầu của một sự trượt dốc để không bao lâu thân tàn ma dại trở thành hành khất, rồi bị điên, rồi tự tử. Cái kết cục bi thảm đó đã làm cho cảm hứng nhân đạo thấm sâu vai chèo, màn chèo. Cái bánh vẽ tình yêu mà Trần Phương trao cho Xuý Vân, nàng tưởng là ngọt ngào nhưng vô cùng cay đắng.

Màn chèo Xuý Vân giả dại đã thể hiện sâu sắc quan niệm của nhân dân về tình yêu lứa đôi, về sự đau khô dại khờ trong tình yêu lứa đôi. Câu hỏi được đặt ra: “Thế nào là tình yêu hạnh phúc gia đình chân chính?” cứ xoáy sâu mãi vào những người yêu thích chèo Kim Nham.

Phân tích nhân vật Xúy Vân - mẫu 4

Đoạn trích Xúy Vân giả dại là tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật chèo Việt Nam. Xuý Vân giả dại là hiện thân của số phận bi kịch người phụ nữ bị giằng xé giữa khát vọng tình yêu và hạnh phúc trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt trong chế độ phong kiến. Chính sự bất bình đẳng trong xã hội là một trong những nguyên nhân gây chính gây nên những tấn thảm kịch của người phụ nữ.

Trong truyện Xúy Vân giả dại, nhân vật chính Xúy Vân được tác giả miêu tả và xuất hiện trước mắt khán giả với bộ dạng nửa tỉnh nửa mê, ngây ngây dại dại. Xúy Vân nói chuyện với bà Nguyệt, lại mượn những hình ảnh về con đò nhỏ trôi nổi để nói về số phận và tình duyên của mình. Chỉ cần như vậy, người đọc đã thấy được một Xúy Vân tuy ngây dại nhưng thực ra lại có nét tài hoa, có cả những tư tưởng về sự hạnh phúc. 

Những câu hát sầu thảm của Xúy Vân càng khiến cho người đọc cảm thông về một số phận, một cuộc đời bi thảm của người phụ nữ. Bởi trong xã hội đó, họ không được phép theo đuổi tình yêu của mình mà phải chịu cảnh sắp đặt của bậc cha mẹ. Chính vì những từ tưởng phong kiến như vậy, XÚy Vân mới luôn bất mãn và đau khổ. Có thể nói, người đẩy nàng vào hoàn cảnh này chính là cha mẹ, những người luôn tự cho rằng muốn nàng sống hạnh phúc. 

Trong truyện, Xúy Vân được miêu tả là một người con gái xinh đẹp và cũng tài hoa chẳng kém những bậc nam nhi được ăn học. Nàng luôn khát khao về một cuộc sống hạnh phúc, vợ may vá chồng làm ruộng. Tuy nhiên, nàng phải gả cho một thư sinh, việc nhà việc cửa đã khiến cho người con gái ấy chịu áp lực lớn mà lại chẳng thể chia sẻ cùng chồng. Vậy nên, khi gặp phải kẻ bội bạc kia, nàng đã tin hắn hết mực. 

Ta chẳng thể trách được Xúy Vân. Nàng là một người dám làm, dám hy sinh. Tuy nhiên, chỉ là lòng tin và tình yêu của nàng đặt không đúng chỗ. Bởi tước đó, vì gia đình nhỏ này, Xúy Vân đã cố gắng rất nhiều trước khi muốn bỏ cuộc. Đáng lẽ ra, Xúy Vân phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, nhưng số trời luôn trêu ngươi nhau vậy.

Phân tích nhân vật Xúy Vân - mẫu 5

Chèo chính là một thể loại mang nhiều nét dân tộc đặc sắc của Việt Nam, là một trong những nét đẹp văn hóa được bảo tồn và phát huy. Trong những bộ chèo đặc sắc, có lẽ Xúy Vân giả dại là bộ khiến cho tác giả có nhiều cảm xúc nhất, và cũng tái hiện chân thực nhất số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. 

Ngay từ đầu chuyện, qua những từ ngữ miêu tả, Xúy Vân xuất hiện trước mắt khán giả với vẻ đẹp đoan trang của người phụ nữ xưa. Kể cả trong lúc giả ngây giả dại, những điệu múa, câu thơ của nàng cũng cho người đọc thấy được, nàng chính là một người phụ nữ tài năng. Vậy tại sao một người phụ nữ sinh đẹp, tài năng như nàng lại đi đến con đường này? Có lẽ, nguyên nhân khách quan lớn nhất chính là do những đặc điểm và định kiến tại thời điểm đó vẫn quá khắt khe với người phụ nữ. 

“Tôi là đò, đò nhỏ có thưa

Tôi càng chờ, càng đợi, càng trưa chuyến đò”

Câu thơ này thể hiện rõ được khát khao với hạnh phúc lứa đôi của người con gái. Nhưng trong thời điểm ấy, Xúy Vân lại thể hiện sự lo lắng cho tuổi xuân của mình đang dần trôi đi bởi những ngày tháng chồng không quan tâm. Con đò ấy cứ đợi mãi, nhưng lại chẳng chờ được một người đi đò. Như người chồng cứ mải chong đèn học tập, không quan tâm đến những sự vất vả, hy sinh của nàng dành cho gia đình. 

Trong những câu thơ tiếp theo, thể thơ lục bát cùng cách ngắt nhịp nhanh chóng cũng cho thấy sự gấp gáp, vội vàng hướng tới một tình yêu mù mịt. Nàng đã bị trói buộc quá lâu, đến mức chỉ thấy được tia hy vọng nhỏ, nàng vẫn cố gắng bám víu và bắt lấy nó cho mình. Nhưng hành động theo đuổi hạnh phúc đó của nàng lại trái với luân đạo của thế giới hiện tại, trái với đức hạnh của một người làm vợ trong xã hội hiện giờ. Nàng cũng tự nhận thức được lỗi lầm của mình, nhưng nàng lại không thể từ chối được tình yêu đang nảy nở trong người. 

Tóm lại, nhân vật Xúy Vân tuy không làm tròn lễ tiết của một người phụ nữ, nhưng lại không đến nỗi đáng trách. Bởi nàng chỉ muốn được sống một cuộc sống hạnh phúc như bao người, mong muốn có một tình yêu giản dị mà đích thực. 

Phân tích nhân vật Xúy Vân - mẫu 6

Vở chèo Kim Nham được bắt đầu bằng cuộc hôn nhân giữa Xuý Vân với cha nẹ Kim Nham. Cuộc gả bán vội vàng, không có tình yêu đó đã đưa đẩy Xuý Vân làm nên bi kịch của chính mình và trở thành một trong những nhân vật đào lệch đặc sắc của chèo cổ. Lấy chồng chẳng được gần chồng, thân thế nông dân lại bị gả vào gia đình chữ nghĩa, cô tự thấy mình lạc lõng, vô nghĩa trong gia đình Kim Nham, chẳng có ai bầu bạn, cũng không người chia sẻ. Tâm trạng đó được thể hiện qua câu hát của Xuý Vân “gà rừng ăn lẫn với công – Đắng cay chẳng có chịu được ức…”. Cô ví mình như con gà rừng ngu ngơ, lạc lõng, đành chịu cay đắng giữa bầy công cao sang, xa lạ.

Đang trong cảnh tù túng bế tắc đó, gặp Trần Phương là tay chơi nổi tiếng đất Đông Ngàn mà cô không biết, cô yêu hắn tưởng như túm được chiếc phao cứu đỡ cho cuộc đời. Nghe lời ngon ngọt của Trần Phương, Xuý Vân giả dại để được trả về nhà với hi vọng được sống với người mình yêu, được thoát khỏi cảnh tù túng để bay ra cuộc sống tự do. Những câu hát điên dại của Xuý Vân không phải tất cả đều là điên dại, ngược lại phần lớn nhũng câu nói và hát đó đều là những lời cay đắng tự trong tâm can cô, phản chiếu niềm khao khát mãnh liệt của một tâm hồn trẻ trung, muốn giao cảm với đời. Cô đã mượn lời nói khi điên dại, khi bóng gió để thể hiện nỗi lòng và bộc lộ tâm trạng của mình, điều mà khi tỉnh không một người phụ nữ nào trong xã hội phong kiến xưa đủ can đảm bộc lộ.

Xuý Vân vừa rối rít gọi đò “bớ đò, bớ đò”, lại vừa chán chường trong lời hát : “Tôi kêu đò, đò nọ không thưa – Tôi càng chờ càng đợi, càng trưa chuyến đò”. Lời hát ấy bộc lộ tâm trạng tự thấy mình đã dở dang, lỡ làng. Dường như chẳng có ai đợi cô ở bên này, cũng chẳng ai đón cô ở đầu kia của bến đò. Cô bẽ bàng trong cảnh đi cũng dở, ở cũng không xong.

Con sông trong văn học dân gian và trong thơ cổ thường là biểu tượng của sự chia li, khoảng cách của đôi bờ, của mặt nước mênh mang luôn gợi buồn. Ca dao

có câu :

Sông Thương nước chảy đôi dòng,

Bên trong, bên đục đau lòng biệt li.

Lí Bạch, nhà thơ nổi tiếng ở Trung Quốc thòi Đường khi tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng cũng có câu thơ nổi tiếng về dòng sông li biệt:

Bóng buồm đã khuất bầu không,

Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.

Con đò (thuyền) là phương tiện nối liền sự xa cách, nhưng con thuyền mất hút chỉ thấy dòng sông bát ngát trong thơ Lí Bạch, con đò “càng chờ càng đợi” càng không thấy đâu trong câu hát của Xuý Vân đều gợi hình ảnh thật buồn bã, bất lực. Cô vẫn biết “Chả nên gia thất thì về – ở làm chi mãi cho chúng chê, bạn cười”, nhưng nói về mà về đâu có dễ, nhất là với các cô gái đã lấy chổng, đã “sang ngang”. Cô càng chờ đợi càng muộn màng, lỡ dở. Hình ảnh cô gái càng chờ đợi, con đò càng không tới đã cụ thể hoá sự bẽ bàng, lỡ dở của cô, cho ta thấm thìa nỗi trống trải, thất vọng của nhân vật.

Với cô thôn nữ Xuý Vân, một gia đình hạnh phúc “anh đi gặt, nàng mang cơm” là ước mơ giản dị và đầm ấm. Mơ ước tưởng như bình thường đó với cô lại không thể có được, bởi Kim Nham mải mê đèn sách, thi cử, bỏ mặc cô một minh với gánh nặng gia đình. Cho nên, lời hát : “Bông bông dắt, bông bông díu – Xa xa lắc, xa xa líu – Láng giềng ai hay…” được lặp đi lặp lại mấy lần, đã phản ánh bằng hình ảnh cụ thể nỗi thất vọng của cô. Nhân duyên khiến hai người gắn bó, dắt díu, ràng buộc với nhau, nhưng những ao ước của họ khác xa nhau, đến mức không thể sẻ chia. Một bên chỉ mong ước cùng sống với nhau dưới một mái nhà, “chồng cày, vợ cấy”, được mùa lúa chín “anh đi gặt, nàng mang cơm”, còn bên kia lại mơ ước học hành, thi cử, đỗ đạt, làm quan để “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. Mơ ước của cả hai đều đẹp và đáng được trân trọng, song nó không có chỗ gặp nhau khiến hôn nhân trở thành sự trói buộc nghiệt ngã. Có nỗi ấm ức, bế tắc, cô đơn nào khòng khiến người ta thất vọng! Xuý Vân tự hoạ nỗi thất vọng ấy của mình bằng hình ảnh “Con cá rô nằm vũng chân trâu – Để cho năm bảy cần câu châu vào…”. Hình ảnh được gợi lên qua câu hát đã bóng gió về không gian cạn hẹp và đầy bất trắc. Trong câu hát đó không có lời nào nói đến “mắc câu”, nhưng hình ảnh con cá rô nhỏ bé, trong cái vũng chân trâu cạn hẹp, không có lối ra, lại có đến năm bảy cái cần câu chực sẵn thì làm sao thoát được. Đó cũng là tình cảnh bị mất tự do, bế tắc của Xuý Vân trong gia đình Kim Nham. Sau mỗi lời bộc bạch là điệp ngữ : “Láng giềng ai hay, ức bởi xuân huyên” càng làm cho nỗi cô đom và niềm khát khao hạnh phúc của cô hiển hiện. Xuân huyên vốn là hai loại cây sống rất lâu năm, tượng trưng cho cha mẹ già. Xuân là cây cổ thụ, gốc to, vững chãi, được ví với người cha; huyền là loại cây lá nhỏ và thanh mảnh, thường được ví với người mẹ. Những người xung quanh không hiểu cô, đến cả cha mẹ là những người thân yêu, tin cậv nhất cô cũng không thể chia sẻ, bởi đằng sau họ là xã hội phong kiến với quan niệm khe khắt “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” làm gì có chỗ để cảm thông với một Xuý Vân đã có chồng rồi còn không yên bề gia thất, làm gì có ai đồng tình với một Xuý Vân muốn bỏ chồng để chạy theo người khác… Xuý Vân cuống cuồng vùng vẫy trong không gian cạn hẹp, tù túng đó. Thật đúng như lời một câu ca dao :

Em như con hục đần đình,

Muốn bay không cất nổi mình mà bay.

Thân phận của Xuý Vân làm cho ta cứ bị ám ảnh, vương vấn, day dứt khôn nguôi.

Cùng với những câu hát bóng gió và nhũng lời bộc bạch, những câu hát ngược cuối đoạn trích lại là một lối bộc lộ rất khéo tâm trạng nhân vật :

… Cái trứng gà mà tha con quạ lên ngồi trên cây

Ở trong đình có cái khua, cúi nhôi,

Ở trong cái nón có cái kèo, cúi cột,

Ở dưới sông có cái phố bán bát,

Lẻn trên biển ta đốn gỗ làm nhà…

Chỉ có những người điên dại mới lẫn lộn, không rõ ngược xuôi. Những câu hát ngược, hát xuôi lẫn lộn của Xuý Vân vừa thể hiện tư duy điên dại, thiếu tỉnh táo, vừa gợi hình ánh ngược đời, trớ trêu, điên đảo, đúng sai, thực giả lẫn lộn mà cô chứng kiến. Những hình ảnh ẩn dụ khi kín đáo, khi bóng bảy, khi thì được giấu giữa những tiếng cười, câu hát đicn dại tưởng như vô nghĩa, khi lại là những câu nói ngược,… tất cả làm thành một nội tâm phong phú, rối bời, đầy tính bi kịch, diễn tả tâm trạng bế tắc, mất phương hướng của cô.

Phân tích nhân vật Xúy Vân - mẫu 7

Trong cuộc sống xã hội, nỗi khổ nào cũng có giới hạn, nỗi đau nào rồi cũng qua đi theo thời gian năm tháng. Thế nhưng có những nỗi đau như đọng thành giọt đắng, thấm vào lòng người thật tê tái, xót xa. Và nó được biểu hiện sâu sắc qua lời tâm sự của người phụ nữ bị thiếu vắng tình yêu, đi theo tiếng gọi tình yêu thì bị xã hội lên án, bị cuộc hôn nhân gượng ép trói buộc, cuối cùng phải chết đi trong niềm đau se thắt; trong cơn mê loạn, điên cuồng. Xúy Vân giả dại - một màn chèo dân gian đặc sắc trong vở Kim Nham sẽ đưa ta đi vào một bi kịch đầy nước mắt.

Xúy Vân - ngưừi vợ trẻ cô đơn phải chờ chồng đi theo tiếng gọi “công danh”. Bao năm dài đằng đẵng sự khao khát tình yêu lứa đôi như rực cháy trong tim nàng. Trái tim nàng như giục giã, đòi giọt nước “ái tình” tươi nhuần, tắm mát. Và nàng đã sa vào cuộc phiêu lưu tình ái với Trần Phương - một tay chơi “nhà cự phú lừng miền tỉnh Bắc”. Trần Phương đã xui nàng “giả dại, làm điên” để chồng là Kim Nham phụ bỏ. Nhưng sau đó, Trần Phương đã “quất ngựa truy phong”, để lại cho nàng một vết thương lòng tê tái. Xúy Vân rơi vào tình cảnh “điên điên dại dại” trong khi Kim Nham đang trong buổi tiệc ăn mừng thi đậu, Xúy Vân hiện lên trong đoạn trích với hình ảnh thật thương cảm, một hình hài xơ xác của một mụ điên, giọng cười man dại:

Đau thiết, thiệt oan

Than cùng bà Nguyệt

Đánh cho lề lệt

Chết ĩnệt con đồng

Đầu tiên là lời thống thiết, van xin xuất phát từ đáy lòng đau khổ. Xúy Vân van xin “bà Nguyệt”. Phải chăng nàng cần sự thông cảm, than về tình duyên của số phận mình. Nỗi đau đã ngấm ngầm chà xát tim gan Xúy Vân, nàng xem mình như kẻ bại trận thảm hại trong cuộc chiến tình trường, như một “con đồng” bị tình yêu quất ngã thật đau đớn. Người xem chỉ thấy một Xúy Vân thật tỉnh táo, nhưng đang chìm trong nỗi khổ triền miên, không gian như ngừng trôi, lắng lại. Bỗng Xúy Vân vút lên trong thảng thốt, xé toạc cả không gian:

Bớ đò, bớ đò!

Tôi la đò, đò nỏ có thưa

Tôi càng chờ, càng đợi, càng trưa chuyến đò

Các câu sau không hề có sự liên kết với phần trên. Đây quả là lời “điên” thực sự. Hình ảnh con đò hiện hữu trong đoạn thơ thật ngẫu nhiên. Con đò có nét gì quen thuộc, thường xuất hiện trong các câu ca dao:

Trăm năm đành lỗi hẹn bò

Cây đa bến cũ con đò khác xưa?

ơ đây, con đò như chiếc bóng mờ mờ, nhạt nhạt mà Xúy Vân như lữ khách cô đơn, lạc lõng trên bờ bến cuộc đời phồn tạp. Ta như cảm thấy được sự trớ trêu của số phận Xúy Vân, nàng dường như đang thống thiết gọi Kim Nham, như gọi một phương tiện sang sông, nàng cảm nhận tuổi xuân của mình từng ngày bị bóp chết bởi sự vò võ, ngóng trông:

Bớ các chị nhiêu ơi, bớ các bạn tình ơi!

Cách con sông nên tôi phải lụy đò

Bởi chưng giời tối phải lụy cô bán hàng.

Xúy Vân lại một lần nữa thống thiết vang lên với nỗi đau trong tận cùng sâu thẳm. Lời lẽ như phảng phất lời tự bạch, biện minh. Lời lẽ thật tỉnh táo. Tâm trạng của Xúy Vân rơi vào sự phức tạp không thể lí giải. Chợt điên rồi lại tỉnh. Nàng ví Kim Nham như một con đò, trong đêm tĩnh mịch, tối trời nàng phải “lụy”. Từ “lụy” có gì nằng nặng, có gì xót xa, nuối tiếc. Nuối tiếc cho sự dun dủi của phận số, một sợi dây oan nghiệt trói buộc nàng vào cuộc hôn nhân hờ hững. Người đọc như thấy Xúy Vân trên sân khấu với nét mặt ủ ê, với lời nói có sự phảng phất đau buồn:

Chẳng nên gia thất thì về

Ở làm chi nữa chúng chê bạn cười

Tôi chắp tay lạy bạn đừng cười

Lòng tôi không giăng gió, tôi gặp người gió giăng.

Rơi vào tình cảnh tình không lôi thoát, Xúy Vân sợ xã hội lên án vì nàng đã dối lòng khi chung sông với Kim Nham. Xúy Vân “chắp tay lạy bạn” để mong tìm sự thông cảm, sẻ chia. Thật tội nghiệp. Cô để cả trái tim mình trên lòng bàn tay chìa ra khắp cả mọi người để chứng minh cho:

Lòng tôi không giăng gió, tôi gặp người gió giăng.

Xúy Vân giải thích với mọi người rằng chính cô là nạn nhân của Trần Phương, của tình yêu bồng bột. Nếu các đoạn trên, ta tìm được cái lôgích thì ở đoạn:

Gió giăng thỉ mặc gió giăng

Đôi ta chỉ quyết đạo hằng với nhau

Đã rời xa cái khung ngôn ngữ. Phải chăng Xúy Vân đã tìm thấy tình yêu thực sự ở Trần Phương dù biết rằng đó là tình yêu bồng bột, sự sôi nổi, sự xúc động nhất thời? Nàng đã chấp nhận tất cả để “quyết đạo hằng” với Trần Phương dù có mang tiếng là “ngoại tình”. Sự mãnh liệt, khát khao tình yêu của Xúy Vân như cơn sóng biển ồ ạt, rì rào và đã dạt dào trong ta một sự thông cảm. Xúy Vân đã tự tin hơn bao giờ hết. Nàng tin với liều thuốc thời gian, và tình yêu của mình, Trần Phương sẽ được cải tạo chín chắn hơn. Có lẽ nhân dân đã tạo ở nàng một mâu người với khát vong tình yêu cháy bỏng, một cô gái có bản lĩnh tự tin, luôn hành động theo bản năng và là người tuân thủ đặc biệt cái “tình yêu thiên tính”. Sự khát khao cuộc sống lứa đôi của Xúy Vân ta đã bắt gặp trong lời tâm sự của người thiếu phụ chờ chồng của Vương Xuân Linh trong bài thơ Khuê oán:

Khuê trung thiếu phụ bất như sầu

Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu

Hốt tiến mạch đầu dương liễu sắc

Hối giao phu tế mịch phong hầu.

(Trong khuê trung thiếu phụ chẳng biết sầu

Ngày xuân, ngừng trang điểm bước lên lầu xanh biếc

Bỗng thấy, phía trước con đường ruộng có dương liễu xanh

Hối hận sao lại để chồng đi tìm “Sắc phong”).

Thật vậy, Xúy Vân đã đi vào con đường “rối rắm tơ lòng”, nhưng nàng đã chân thành bày tỏ cái “nhịp sóng lòng” với chúng ta, dù bất chợt đó là lời nói trong cơn mê loạn. Trong tận cùng sâu thẳm của lí trí một người điên, nàng vẫn còn nhận ra đích thị giá trị nhân phẩm của mình: Nghề dại dột... nhưng tài cao vô giá như đã có lần biện minh:

Lòng tôi không giăng gió, tôi gặp người gió giăng.

Tuy bị tình yêu cuốn đi như cơn lốc, nhưng nàng vẫn còn tỉnh táo để nhận ra sự sai trái, đáng lên án của một kẻ “ngoại tình” là:

Phụ Kim Nham, say đắm Trần Phương

Đang trượt dài trong niềm Ưu tư, ở nàng như bộc phát sự tái tê đến không thể chịu được, và nàng đã hát, hát lên cho vơi đi niềm đau, hát cho tan cả đất trời, điệu hát “Con gà rừng” bỗng dưng ngân vảng:

Con gà rừng

Ăn lẫn với công

Đắng cay chẳng chịu được

Láng giềng ai hay?

Bông dắt bông díu

Xa lắc xa líu

Láng giềng ai hay?

Trong lời hát, hai hình ảnh mâu thuẫn giữa “con gà rừng” và “công” tạo ra sự liên tưởng đặc biệt. Một sự cách xa về giống loài, về giá trị đã tạo nên sự “đắng cay”, chua chát. Phải chăng, Xúy Vân đang gợi cho ta số phận một “Xúy Vân” tài cao vô giá lại phải sống chung với “con gà rừng”, chẳng khác nào nàng đã ám chỉ Kim Nham, để rồi sau đó là thống thiết kêu lên “Láng giềng ai hay?”. Câu nói của nàng như một lời nghi vấn, cần sự giải đáp gây nhức nhối trong lòng người. Tiếp theo nàng đưa ra hình ảnh “bông dắt bông díu”, nhưng lại “xa lắc xa líu”, một sự vương víu, mắc míu được nhấn mạnh, có lẽ đó là sợi dây oan nghiệt trói buộc nàng. Một lần nữa, nàng lại tự hỏi: “Láng giềng ai hay?”. Có lẽ lần nói này đã chan hòa nước mắt, nó nghẹn ngào khi niềm cay đắng dâng lên. Trong tình cảnh này, tâm tư Xúy Vân mâu thuẫn gay gắt giữa tình yêu thiên tính và đạo đức xã hội ám ảnh, cái đạo đức Nho giáo “tam tòng tứ đức” dằn vặt. Nàng đau khổ vì đâu? Điên dại vì đâu? Chúng ta được sự giải thích: “Bởi xuân huyên!”. Lời thật đau nhói, xoáy vào tâm can các bậc cha mẹ. Dù sao, Xúy Vân vẫn chỉ trách phận mình đen đủi, phải vấp ngã trong dòng thác lũ cuộc đời. Hai câu tiếp theo bỗng dưng đột biến kì lạ:

Chờ cho bông lúa chín vàng

Để anh đi gặt, để nàng mang cơm.

Xúy Vân vụt hát lên với ước mơ bình dị, được sum vầy êm ấm trong hạnh phúc đời thường, nó phảng phất tính chất đồng quê. Nó như một định hướng về tương lai phía trước. Phải chăng khi quá đau khổ thất vọng, con người chỉ biết ước mơ thôi? Hai câu này gợi cho ta sự liên tưởng đến câu ca dao:

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu

Chồng cày, vợ cấy con trâu đi bừa.

Tiếp theo sau, Xúy Vân thực sự “chìm” trong quá khứ. Nàng múa bắt nhện, xe tơ, dệt cửi... Người xem như thấy một Xúy Vân ngây thơ, trong trắng ở thời con gái - thời dệt nhiều hoa mộng nhất của đời người. Một quá khứ tái hiện trở lại. Ta thấy Xúy Vân đáng thương hơn bao giờ hết. Nhưng rồi, nàng lại cười lên với tràng cười ghê rợn, lại khóc tấm tức, và lại tự mỉm cười. Có lẽ nàng đã điên thực sự trong nỗi đau khổ thật của mình. Hình ảnh con nhện giăng tơ gối đầu trên đoạn thơ như sự giao kết, liên lạc giữa hai người: Xúy Vân - Trần Phương:

Ngồi rồi xem nhện xe tơ

Xe năm sợi chỉ đợi chờ tình nhân

Nhác trông lên núi Thiên Thai

Thấy hai con quạ ăn xoài trên cây.

Hình ảnh “hai con quạ ăn xoài” hiện lên thật đẹp, thật khắng khít, khó tách rời nhau. “Núi Thiên Thai” như một thế giới khác, lánh xa cuộc sống phàm tục, nó bồng bềnh, tươi đẹp của cảnh “non bồng nước nhược”. Sau đó, nàng lại liên tưởng đến mình và người yêu:

Đôi ta dắt díu lên đây

Áo giải làm chiếu, chăn quay làm mùng

Đây quả là một ước mơ táo bạo, tách rời cả khuôn phép đạo đức. Xét ở góc độ nào, niềm ước mơ của nàng vẫn chân thành, nó xuất phát từ trái tim yêu, yêu mãnh liệt, cháy bỏng: Nàng quá yêu; nó bộc lộ sâu săc trong lời than thở:

Tôi thương nhân ngãi

Tôi nhớ nhân tình

Đêm năm canh trằn trọc hòa (cả) năm

Than rằng nhân ngãi cựu hình đi đâu

Nàng thẳng thắn bộc lộ tâm trạng mình - tâm trạng của người con gái dam mê sống, dam mê yêu nhưng bị “tình yêu” trốn chạy, vuột khỏi tầm tay. Xúy Vân lại thêm một nỗi khổ chất chồng: là nạn nhân của mối tình bồng bọt nhất thời. Nàng ví mình như con cá rô bé nhỏ, sa vào “vũng chân trâu”:

Con cả rô nằm vũng chân trâu

Để cho năm bảy cái cần câu châu vào

Nàng bị “cạm bẫy” cuộc đời trói buộc, rồi lại phải nhận bao điều oan trái, đắng cay ập xuống thân phận mỏng manh, như “năm, bảy” cần câu châu vào một con cá rô, mặc cho con cá rô vùng vẫy, lẻ loi, hoảng sợ mà chẳng tìm đâu ra bến đỗ, nơi giải thoát bản thân. Nét tâm lí này như một nếp gấp không thể nào là ủi phẳng phiu được. Càng sống trong thực tại, nàng càng cảm thấy khổ đau, bị cơn sóng lòng dội mạnh. Bỗng dưng, Xúy Vân vận dụng vè nói ngược:

Chuột chạy bờ rào

Muỗi ấp cảnh dơi

Õng Bụt mà bẻ cổ con nai

Cái trứng gà mày tha con quạ lên ngồi trên cây

Cưỡi con gà mà đi đảnh giặc

Câu hát ngược của nàng là sự hòa quyện giữa cái bi và hài. Nàng ẩn giấu cái “bi kịch” đầy nước mắt của mình vào lời hát dân ca để ta có thể cảm nhận “cái tôi” thật sự của nàng qua hình ảnh của một “mụ điên”. Dưới mắt xã hội, kẻ điên như một phần tử bị sa thải khỏi cộng đồng, nhưng Xúy Vân vẫn đề cao giá trị nhân phẩm của mình.

Rồ này ai bán thì mua

Dại này ai thấy không mơ mẩn tình

Lúc thì giả cách làm thinh

Lúc thì giả dại ra hỉnh làm điên

Lúc thì tưởng đến nhân duyên

Cho nên đến nỗi phát điên phát rồ.

Lúc này, Xúy Vân tỉnh táo hơn bao giờ hết. Người xem chỉ thấy một Xúy Vân đáng thương, thân hình tiều tụy, sầu khổ trăm bề. Nỗi tủi khổ như uất nghẹn, tim nàng co thắt, nước mắt bây giờ đã chạy ngược vào tim, cuộc đời giờ đây đối với Xúy Vân chỉ là một vòng tròn oan nghiệt, một con số không vô nghĩa. Trong phút giây này, nàng cảm thấy tủi hổ với Kim Nham và chỉ còn nhắn với Kim Nham vài lời trong niềm chua chát:

Phong thư này nhắn gửi Kim Nham

Anh ở đâu cho chóng mà về

Nghe lời tôi lập một đàn thề

Nghe thời chớ, không nghe để gái này tự vẫn

Màn chèo khép lại trong dư âm của tiếng khóc thì thầm, trong tiếng cười gờn gợn của Xúy Vân, để lại trong mỗi chúng ta một sự chua xót, nén tiếng thở dài. Màn chèo kết hợp hài hòa, tinh vi trong điệu bộ, cử chỉ, nhạc điệu và âm hưởng. Màn chèo với cách diễn tả thật độc đáo tâm trạng của cô gái quá khổ đau trong tình trường. Xúy Vân hiện lên trong suốt màn chèo với một Xúy Vân đáng thương hơn đáng trách. Nàng đã hành động “Phụ Kim Nham say đắm Trần Phương" là vì nàng hành động theo bản năng, theo tiếng gọi tình yêu để vươn tới tình yêu thiên tính. Xét góc độ bên ngoài thì đây là hành động phi đạo đức, đáng lên án, nhưng càng đi sâu vào cái khổ, cái bấn loạn, hỗn độn của nội tâm Xúy Vân, thì niềm thông cảm đã lấn át ý tưởng một mực lên án nàng. Màn chèo "Xúy Vân giả dại” trở thành “đứa con phá bĩnh” với người sáng tạo ra nó, nguyên nhân là nhân dân tôn trọng tâm trạng khách quan. Màn chèo còn là tiếng nói phản kháng các cuộc hôn nhân gượng ép, giả dối. Cái chết của Xúy Vân quả là một bi kịch đầy nước mắt. Và phải chăng nhân dân đã muốn nàng phải trả giá cho hành động quá bồng bột, lãng mạn đã đi ngược đạo đức Nho giáo?

Xuyên suốt màn chèo, ta nhận ra biết bao vẻ đẹp của nhân ái và khát vọng tình yêu đã rực cháy như ngọn lửa thiêng không bao giờ tắt trong trái tim người thiếu phụ. Khát vọng tình yêu tự nhiên nên vẻ đẹp với ánh sáng lung linh của thời đại càng đi sâu và hòa quyện tâm hồn vào con người của Xúy Vân, thông cảm cho nàng hơn bao giờ hết. Vở chèo đã góp chung một tiếng nói phản kháng các cuộc hôn nhân giả dối, gượng ép, ủng hộ tình yêu thiên tính. Đồng thời, ta có thể rút ra cho mình một nhận thức về: “Người đàn bà cao quý biết bao! Họ bệnh và dệt nên những hoa hồng của thượng giới trong đời sống phàm tục của chúng ta”.

Chính nhịp sóng lòng về tình yêu của người phụ nữ là những nốt nhạc trầm bổng du dương, tạo nên trong tao đàn văn học dân gian một giai điệu không dứt và mãi xao xuyến, rung động tâm hồn con người qua bao thời đại.

Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 10 hay khác: