Các dạng đề bài Nỗi thương mình chọn lọc - Ngữ văn lớp 10
Các dạng đề bài Nỗi thương mình chọn lọc
Tổng hợp các dạng đề văn lớp 10 xoay quanh các tác phẩm đầy đủ các dạng đề đọc hiểu, đề văn phân tích, cảm nhận, nghị luận, ... với hướng dẫn chi tiết giúp học sinh ôn tập đạt điểm cao trong các bài thi môn Ngữ văn lớp 10.
1.Dạng đề đọc – hiểu văn bản
Câu 1: Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
( Trích Nỗi thương mình, Trang 107, Ngữ văn 10, Tập II,NXBGD, 2006)
a. Văn bản trên có ý chính gì? Xác định phương thức biểu đạt của văn bản?
* Gợi ý trả lời
- Văn bản trên có ý chính : tả cảnh sinh hoạt ở lầu xanh của Tú Bà.
- Phương thức biểu đạt của văn bản : miêu tả, tự sự, biểu cảm
b. Chỉ ra và nêu hiệu quả nghệ thuật hình thức đối xứng trong văn bản?
* Gợi ý trả lời
-Đối xứng nhỏ nhất: tách 2 từ ghép để tạo thành một cụm từ mới: ong bướm / lả lơi thành bướm lả /ong lơi.
- Đối xứng trong từng câu thơ: Cuộc say đầy tháng / trận cười suốt đêm; Sớm đưa Tống Ngọc / tối tìm Trường Khanh,…
à Hiệu quả nghệ thuật: Có tác dụng cụ thể hoá hơn nét nghĩa: bọn khách làng chơi ra vào dập dìu, nhộn nhịp.
c. Những hình ảnh bướm lả ong lơi, lá gió cành chim, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm, Tống Ngọc, Trường Khanh sử dụng biện pháp nghệ thuật gì ? Tác dụng của biện pháp nghệ thuật đó là gì?
* Gợi ý trả lời
- Những hình ảnh bướm lả ong lơi, lá gió cành chim, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm, Tống Ngọc, Trường Khanh sử dụng biện pháp nghệ thuật ước lệ quen thuộc trong thơ văn trung đại.
à Hiệu quả nghệ thuật: vừa tả cảnh sống thực của Thuý Kiều – làm kĩ nữ ở lầu xanh vừa giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật mà Nguyễn Du yêu quý, trân trọng
Câu 2: Nhà thơ Nguyễn Du tỏ thái độ như thế nào với xã hội phong kiến qua văn bản “ Nỗi thương mình”.
* Gợi ý trả lời
- Nhà thơ Nguyễn Du tỏ thái độ phê phán, lên án gay gắt cảnh lầu xanh nhơ nhớp trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Câu 3: Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
( Trích Nỗi thương mình, Trang 108, Ngữ văn 10, Tập II,NXBGD, 2006)
a. Chỉ ra và nêu hiệu quả nghệ thuật nhịp thơ và phép điệp của câu thơ Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
* Gợi ý trả lời
- Câu thơ Giật mình, mình lại thương mình xót xa. có nhịp 2/1/3/2.
Hiệu quả nghệ thuật : Nhịp thơ thay đổi, chậm lại, trở thành khoảng lặng đau đớn về nỗi cô đơn tê tái và sự tự ý thức phẩm giá của nàng Kiều.
-Từ “mình” được lặp lại ba lần trong câu thơ, nó thể hiện nỗi niềm đang tràn ngập tâm trạng của Kiều.
→ Hiệu quả nghệ thuật :
-Kiều đang đối thoại với chính mình. Hai “mình” trong một con người Kiều đang soi vào nhau. Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn, nàng luôn khao khát về một cuộc sống tốt đẹp. Thế mà giờ đây, nàng lại rơi vào một hoàn cảnh cực kì trái ngang, bi đát. Vì thế, đã có biết bao đêm một mình nàng suy nghĩ, một mình nàng trăn trở, một mình nàng xót xa cho thân phận mình sao lại bị đẩy đưa đến nông nỗi này.
-“Giật mình”, chính là sự tự ý thức chua chát về nỗi đau, nỗi nhục nhã, ê chề của thân phận trên cơ sở sự trỗi dậy của nhân phẩm, của bản chất tốt đẹp vốn có trong Kiều. Chỉ có những khoảnh khắc này, Kiều mới được sống thực với con người mình, trở về với bản chất tốt lành, phẩm giá cao quý của mình.
b. Xác định biện pháp tu từ ( về từ) trong văn bản và nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp đó ?
* Gợi ý trả lời
Biện pháp tu từ( về từ) trong văn bản :
- So sánh : Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
- Hoán dụ : Mặt sao ; Thân sao
- Ẩn dụ: Phong gấm rủ là ( hạnh phúc) ;dày gió dạn sương(sự từng trải) ;bướm chán ong chường( thân phận bị ruồng bỏ, rẻ rúng) ; mây Sở mưa Tần( quan hệ thân xác) ; xuân ( tuổi trẻ, hạnh phúc)
à Hiệu quả nghệ thuật : Tất cả những biện pháp tu từ đó biến đoạn thơ thành lời độc thoại nôi tâm của nhân vật, trực tiếp diễn tả tâm trạng của nàng Kiều một cách cụ thể và chân thực. Đó là tâm trạng xót thương cho bản thân mình, số phận của mình.
Câu 4: Viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ của em về vẻ đẹp tâm hồn của Thuý Kiều qua văn bản.
* Gợi ý trả lời
Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu :
-Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, lập luận chặt chẽ ;
-Nội dung: Vẻ đẹp tâm hồn của Kiều thể hiện :
+ Nàng ý thức rất rõ và rất đau đớn về cảnh ngộ, nỗi cô đơn tận cùng khi phải sống trong lầu xanh nhơ nhớp ;
+ Một loạt những từ ngữ để hỏi : khi sao, giờ sao, thân sao…diễn tả sự chất vấn, tự giày vò, tự kết án chính mình của Kiều. Đó cũng là sự chất vấn số phận của nàng ;
+ Trong hoàn cảnh ê chề, Thuý Kiều đã có ý thức về nhân phẩm, giá trị nhân cách bản thân, ý thức về quyền sống của mình.
Đề 5: Viết đoạn văn ngắn ( 5 đến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ về sự giống nhau và khác giữa giữa câu thơ của Nguyễn Du :
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
với câu thơ của Đặng Trần Côn trong Chinh phụ ngâm ;
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun
* Gợi ý trả lời
Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu :
-Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, lập luận chặt chẽ ;
-Nội dung:
+ Giống nhau : bút pháp tả cảnh ngụ tình, một trong những đặc trưng cơ bản của thi pháp thơ trung đại ;
+ Khác nhau :
++ Thơ của Đặng Trần Côn thể hiện mối quan hệ giữa cảnh và người. Cảnh buồn kéo theo người buồn. Sự mòn héo, tàn tạ của của cảnh vật : cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun làm cho lòng người chinh phụ càng tê tái trong lòng ;
++ Thơ của Nguyễn Du thể hiện mối quan hệ giữa người và cảnh. Người buồn thì cảnh cũng buồn theo. Cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Tâm trạng con người đã lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí.
2.Dạng viết bài văn (4-6 điểm)
Đề 1: Phân tích đoạn trích “Nỗi thương mình” trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
* Gợi ý trả lời
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều
- Giới thiệu khái quát về đoạn trích
2. Thân bài
2.1. Tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều ở lầu xanh (4 câu đầu)
- Bút pháp ước lệ, tượng trưng: bướm, ong, cuộc vui, trận cười
→ Cảnh sinh hoạt xô bồ, tấp nập ở chốn lầu xanh
- Sử dụng điển cố, điển tích: lá gió, cành chim, Tống Ngọc, Trường Khanh
- Nghệ thuật tiểu đối, gợi nên sự bẽ bàng, xấu hổ của Thúy Kiều: bướm lả - ong lơi, cuộc vui…- trận cười…., sớm – tối
- Từ ngữ chỉ mức độ: biết bao, đầy tháng, suốt đêm
⇒ Cuộc sống xô bồ ở lầu xanh, Kiều phải tiếp khách làng chơi suốt ngày đêm. Đây là một tình cảnh trớ trêu của cuộc đời Kiều khi bị vùi dập, chà đạp cả thể xác và nhân phẩm
2.2 Niềm thương xót cho thân phận của Kiều
- Không gian: lầu xanh
- Thời gian: tàn canh, ban đêm
→ Thời gian, không gian nghệ thuật thích hợp để Kiều soi thấu tâm trạng của mình
- Tâm trạng của Thúy Kiều:
+ Giật mình: bàng hoàng, thảng thốt, không tin vào cảnh sống ở thực tại của bản thân mình
+ Thương mình xót xa
→ Cái giật mình trân quý, làm nên nhân cách cao đẹp của Thúy kiều
- Nghệ thuật:
+ Cặp từ đối lập “ khi sao” và “ giờ sao” với nghệ thuật đối giữa hai câu lục/ bát ⇒ nhấn mạnh sự khác biệt: quá khứ thì êm đềm, hạnh phúc còn hiện tại thì đau đớn, phũ phàng, bị vùi dập
+ Ngữ điệu hỏi: “mặt sao”, “ thân sao”
+ sử dụng thành ngữ chéo:“dày gió dạn sương” (dày dạn gió sương), “bướm chán ong chường” (ong bướm chán chường) ⇒ nhấn mạnh sự ngỡ ngàng, bàng hoàng
+ Đối lập giữa khách và Kiều
⇒ Khi sống thật với chính mình, Kiều bàng hoàng , xót xa cho thân phận của mình và phải chăng đó cũng chính là tiếng nói đòi quyền sống cá nhân của con người trong xã hội phong kiến của Nguyễn Du- con người biết nhận thức và ý thức về hạnh phúc của mình
2.3 Tâm trạng cô đơn, đau khổ của Thúy Kiều (phần còn lại)
- Cuộc sống chốn thanh lâu: có phong, hoa, tuyết, nguyệt (cảnh đẹp bốn mùa), thú vui cầm, kỳ, thi, họa
→ Cảnh vật đối với Thúy Kiều là sự giả tạo, Kiều không tìm được tri âm, tri kỉ, nàng thờ ơ với tất cả mọi thứ xung quanh
- Qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh: sống nơi lầu xanh dập dìu, Thúy Kiều tự thương, tự đau, tự xót xa cho thân phận của mình
- Điệp từ vui, ai…và câu hỏi tu từ là tiếng kêu đến xé lòng của con người tài hoa bạc mệnh
⇒ Trong chốn lầu xanh nơi mà tất cả đều phù phiếm, đồng tiền lên ngôi, Kiều vẫn cố gắng tách mình ra, tìm một tâm hồn tri âm, thể hiện khát vọng sống trong sạch của Kiều mà ta thật sự đáng trân trọng.
⇒ Nguyễn Du đề cao giá trị nhân văn, cảm thông sâu sắc với số phận của Kiều và lên án xã hội gay gắt
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
Đề 2: Phân tích ý thức và phẩm giá con người qua đoạn trích "Nỗi thương mình" trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Bài tham khảo
Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã là người thứ nhất trong văn học Việt Nam làm nên một chuyện lạ lùng: bắt độc giả nhiều thế hệ phải mê, phải bênh, phải bảo vệ một người con gái giang hồ, từng “thanh lâu hai lượt”, từng thốt lên lời đoạn tuyệt với chữ trinh nghìn vàng đáng giá “Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”! Có thể xem đây là một nghịch lí, một nghịch lí chỉ có nghệ thuật mới thực hiện để khiến độc giả từ đó nhận ra chân lí cuộc đời.
Tại sao Nguyễn Du đã làm được điều ấy? Chỉ xét vấn đề từ khía cạnh con người nghệ sĩ của Nguyễn Du, có thể nói, bí quyết lớn nhất giúp ông thành công chính là sự nhấn mạnh vào đời sống tâm lí của nhân vật. Nếu thiếu tâm lí, Kiều đã không phải là Kiều và cơ chừng hình tượng nhân vật này sẽ không chiếm được trọn vẹn cảm tình, lòng thương xót của ta đến vậy.
Trước phần được trích học trong sách giáo khoa, Nguyễn Du đã dành một đoạn dài để thuật kể bài học “vỡ lòng” mà mụ Tú Bà dạy cho Thuý Kiều về cái “công phu” của “nghề chơi” ở chốn lầu xanh. Đi kèm với sự thuật kể đó, nhà thơ cũng đã cho ta biết cảm giác ngậm ngùi, xót xa của nàng Kiều khi phải “học lấy những nghề nghiệp hay!”. Chưa vào nghề mà đã thế – người đọc nhạy cảm nhận thấy ở đây lời báo trước về một đoạn đời ghê gớm, vô cùng tủi nhục của nhân vật chính. Đồng thời, ta cũng hiểu ra một điều gần như đã trở thành quy luật: lúc nào thấy Kiều sắp phải sa vào cuộc sống ô trọc là Nguyễn Du lại hướng sự quan tâm của người đọc vào phản ứng tâm lý của nàng – cái phản ứng nhiều khi mang tính chất của một cuộc kháng cự tuyệt vọng. Thế là không biết tự khi nào, ta đã cùng với nhà thơ có chung niềm thấp thỏm lo âu khi theo dõi đường đời của cô gái họ Vương đa tài, đa tình, đa ưu, đa hoạn!
Cái cuộc sống ở chốn lầu xanh mà nàng Kiều phải can dự vào thật đáng ghê sợ:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tới tìm Trường Khanh.
Giữa các điển tích và hình ảnh ước lệ, tác giả nêm chen vào rất nhiều yếu tố ngôn từ chỉ hoạt động và mức độ của hoạt động như lả lơi, say, cười, sớm đưa… tối tìm, biết bao, đầy, suối, dập dìu…Với kiểu xử lý nghệ thuật đó, điển tích và hình ảnh ước lệ không bị đông cứng lại thành những khái niệm khô khan mà vẫn mang dáng vẻ cụ thể, sinh động và vẫn gợi được nhiều cảm giác, trước hết là cảm giác nhàm chán, gớm ghét. Việc tách xé cụm từ có kết cấu khá chặt chẽ là “ong bướm lả lơi” để sắp xếp lại theo một trật tự mới – trật tự của kết cấu song hành – thành “bướm lả ong lơi” cùng việc sử dụng hình thức tiểu đối trong câu thơ “Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” đã làm nổi các trò suồng sã của vô số kẻ truỵ lạc (chứ không phải chỉ một kẻ truỵ lạc, một loài ong bướm chung chung) và sự tái diễn miên man, bất tận của những cuộc truy hoan. Ta tưởng như thấy trước mắt những dáng điệu nghiêng ngả quay cuồng, những cử chỉ chèo kéo dai dẳng không thể gỡ thoát, nghe dội bên tai những trận cười sằng sặc điên dại, những lời đưa đẩy nhớt nhát, dẫn dụ con người lạc vào vùng đam mê tăm tối. Chính cảm quan hiện thực đã giúp nhà thơ vượt thoát khỏi sự khống chế tiêu cực của cách diễn tả mang nhiều tính quy phạm để nói được cái bản chất trần trụi của sự việc, nhưng ngược lại mỹ cảm vững vàng lại cho phép ông chủ động lợi dụng những mặt khả thủ của cách diễn tả kia, làm cho ngôn từ thơ vẫn đạt được sự trang nhã cần thiết, hướng người đọc tới thái độ dị ứng với những cách thác loạn.
Từ điểm nhìn ấy, nhà thơ đưa ta tới miền tâm sự của nàng Kiều:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Mặc người mưa sở, mây
Tần Những mình nào có biết xuân là gì.
Những cảnh nghiêng ngả đã lùi xa, những trận cười lắng lại. Chỉ còn trơ khác ở đây một con người vô cùng cô độc đang tự thương thân. Ba từ mình xuất hiện trong diện tích hẹp của câu thơ đã nhàn lên trùng trùng sự cô độc đó và thể hiện rất chính xác cái không khí lặng ngắt đang vây bọc lấy nàng Kiều. Thật đáng xót xa cái kiếp sống một con người phải đem thân ra cho thiên hạ giày vò và chỉ có giá trị với thiên hạ thuần tuý ở khía cạnh mua vui. Tâm sự của nàng như thế nào thì chẳng ai thèm biết đến. Nhưng nhà thơ đã không bỏ rơi người con gái bất hạnh. Ông rưng rưng cùng Kiều vào chính những thời điểm nàng còn lại một bóng “khi tỉnh rượu, lúc tàn” canh, tức là thời điểm nàng được trở về với chính mình, sống đúng mình nhất. Oái oăm thay những thời điểm đó không thể đưa lại cho con người sự tĩnh tâm, nói gì tới niềm vui. Cái chúng đưa đến chỉ là sự giật mình – một cảm giác khiếp hãi không hiểu tại sao bản thân lại ra nông nỗi ấy. Men rượu đã nhạt không đủ dìu nàng chìm vào sự quên, đêm hầu tàn nhưng trời lại chưa sáng không cho nàng mượn việc tiếp khách để đánh đuổi nỗi nhớ. Kiều không thể trốn mình, không thể thoát khỏi sự giày vò của ý thức về nhân phẩm. Sự hồi nhớ về một thời “phong gấm rủ là”, về nếp sống của một tiểu thư khuê các đã làm Kiều vô cùng đau đớn. Sự đối lập dữ dội giữa hai cảnh đời dường như vượt quá tầm lí giải của nàng, khiến nàng chỉ còn biết sống với những thắc mắc tuyệt vọng (khi sao, giờ sao). Nhưng bên cạnh nỗi thắc mắc, Kiều còn thấy kinh sợ cho chính bản thân và muốn nguyền rủa bản thân (mặt sao, thân sao). Rõ ràng có một sự chuyển biến và bổ sung sắc thái ngữ nghĩa rất tinh tế ở từ sao khi nó được ghép với những từ khác nhau và được đặt ở những câu khác nhau, trong lúc nghĩa oán thán, trách phận, xa xót vẫn được bảo lưu trọn vẹn. Ở mấy câu thơ này, Nguyễn Du tiếp tục sử dụng thủ pháp xáo trộn trật tự các tiếng trong những cụm từ dày gió dạn sương và bướm chán ong chường. Nếu tác giả vẫn hạ bút viết theo cách nói thông thường là dày dạn gió sương và ong bướm chán chường thì có lẽ tính cảm giác của các câu thơ cùng ấn tượng về một sự tồn tại trơ trẽn sẽ bị tước đi gần hết. Như vậy, phép lạ hóa ngôn từ đã được nhà thơ dùng hết sức đắc địa, giúp người đọc luôn biết dừng lại thắc mắc với từng yếu tố nhỏ nhất của văn bản, từ đó mà nhập cảm trọn vẹn vào cảm giác bị giày vò đau khổ của nhân vật. Mượn lời của Nguyễn Minh Châu trong một bài viết về Nam Cao, ta có thể nói Thúy Kiều đã tự đặt mình lên cái kẹp chả và chính tay nàng không phải tay ai khác lật đi lật lại mình trên lò lửa của sự dằn vặt và tự vấn. Sự chán mình, tủi hổ cho mình như thế là đã đạt tới đỉnh điểm.
Nếu trong bốn dòng đầu của đoạn trích, tác giả miêu tả khái quát cảnh sinh hoạt đặc trưng ở lầu xanh, thì trong những dòng dưới đây, ông đi vào tái hiện cụ thể ứng xử của nàng Kiều giữa chốn ô trọc đó:
Mặc người mưa Sở, mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Rõ là Kiều tồn tại như một cái xác vật vờ, một vật thể máy móc. Hoàn toàn không có sự nhập cuộc của yếu tố tinh thần, bởi vậy những tựa, những kề ở nàng chỉ có tính chất tự động hóa, tuỳ thuộc vào sự đẩy đưa, lơi lả của đám khách làng chơi. Mặc cho gió mưa dập dìu trên thân xác, nàng chẳng biết xuân là gì, nhất là khi đã có sự đánh tráo khái niệm đối với từ “xuân”. “Xuân” là sự vui tươi, hạnh phúc, nhưng một cuộc sống như thế mà được gọi là vui, hạnh phúc hay sao? Những cảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt vốn đẹp nhưng giờ đây đối với Kiều chẳng có ý nghĩa gì. Vả chăng, gió trong gió tựa và hoa trong hoa kề lại không thuần tuý hàm nghĩa chỉ cái đẹp của ngoại giới mà còn mang nghĩa chỉ những hạng người lai vãng tìm vui, tìm khoái lạc chốn lầu xanh. (Tựa, kề cùng trường nghĩa với những lả, lơi, say, cười, đưa, tìm, mưa, mây ở trên). Nàng Kiều chỉ thấy có một không khí hư vô lồng lộng lạnh lùng thổi quanh mình. Rõ ràng khi tâm hồn băng giá thì cảnh cũng đeo sầu, ảm đạm, không thể khác được. Từ cảnh huống của một con người cụ thể, Nguyễn Du đã đưa ra một chân lý phổ quát. Khi đã hiểu được chân lý phổ quát đó, sống lại với tâm sự của nàng Kiều, ta thấy thương nàng vô hạn. Không chỉ thương mà còn trọng nàng. Đã bị rơi vào vũng bùn nhơ nhớp mà vẫn gắng không để cho bùn đồng hóa. Điểm tựa của nàng chính là sự tự ý thức. Sự tự ý thức đã vạch rõ ranh giới giữa nàng với môi trường phàm tục, để nàng vẫn tiếp tục là một con người mang nhiều nét lí tưởng mà Nguyễn Du cũng như những độc giả trung thành với những giá trị đạo đức truyền thống mong muốn.
Đề 3: Phân tích tâm trạng Thúy Kiều qua đoạn trích "Nỗi thương mình" trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du
Bài mẫu tham khảo
Điểm đặc thù của đoạn trích này là tác giả viết về tình cảnh, tâm trạng của Thúy Kiều khi bị buộc làm kĩ nữ tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du phải đối diện với một thực tế phũ phàng là xã hội vạn ác đã đồn đẩy nhân vật mà ông trân trọng, yêu mến vào chốn thanh lâu. Làm thế nào để vẫn phản ánh được sự thật mà không hạ thấp nhân vật. vẫn thể hiện được thái độ cảm thông của mình và nói lên được sự đau khổ, thương thân xót phận của nhân vật. Nguyễn Du phát huy mặt mạnh của bút pháp ước lệ cùng nghệ thuật sử dụng ngôn từ chọn lọc vừa phù hợp vừa chính xác để giải quyết vấn đề nan giải này. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Những ẩn dụ như bướm lả, ong lơi, lá gió, cành chim, hình ảnh cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn chương về Tống Ngọc, Trường Khanh, hai vị khách phong lưu nổi tiếng đã khắc họa được cảnh sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lả lơi, dập dìu, sớm đưa, tối tì ra ấy, nổi bật lên hình ảnh một nàng Kiều cô đơn, buồn tủi.
Các hình thức đối xứng trong câu như bướm lả / ong lơi, lá gió / cành chim được Nguyễn Du khai thác triệt để nhằm tô đậm nỗi thương thân, xót phận của Thúy Kiều và gây cảm giác đau đớn. Xót xa thực sự cho người đọc.
Bốn câu thơ đầu vừa là bức tranh sinh hoạt nhơ nhớp chốn thanh lâu vừa ẩn chứa tiếng thở dài não ruột của người con gái tài sắc buộc phải làm kĩ nữ. Tác giả xót thương Thúy Kiều rơi vào chốn bùn nhơ, nơi nhân phẩm bị hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó, Thúy Kiều đã ý thức rất rõ về nhân phẩm cao quý của mình.
Thúy Kiều là một người con gái được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lí tưởng của cái đẹp, cái thiện. Khi lâm vào tình cảnh ô nhục mà nàng chưa từng nghĩ đến. Thúy Kiều đã cố vùng vẫy để được giải thoát, nhưng càng vùng vẫy lại càng bế tắc. Nỗi đau “trần thế'’ đối với một người Mai cốt cách, tuyết tinh thần như Thúy Kiều dường như nhân lên gấp bội: vì hơn ai hết, nàng không bao giờ chấp nhận cuộc sống sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh. Do đó, khi thể hiện tâm trạng Thúy Kiều ở lầu xanh, Nguyễn Du đã dồn hết cảm xúc xót thương vào ngòi bút.
Nhà thơ đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc khách làng chơi đã ra về hết, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.
Nhịp thơ 3/3 như gợi từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không gian vắng lặng, cô liêu càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa trong dạ người con gái đang lênh đênh, lưu lạc nơi đất khách.
Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình / xót xa. Hai chữ giật minh kết. hợp với cách ngắt nhịp đột ngột diễn tả tâm trạng thảng thốt của Thúy Kiều. Từ mình mang thanh bằng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm mà gợi cảm giác nặng nề bởi nó được lặp lại tới ba lẩn trong một câu thơ có nhịp điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố ghìm tiếng khóc.
Thúy Kiều giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của số phận và tình cảm thảm hại của mình lúc này. Hai câu thơ tả tâm lí trên có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hòa, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình là cảm xúc bao trùm trong đoạn trích. Thúy Kiều buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gặp ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi vào chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh Chán trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau cô độc giữa lũ quỷ mặt người nên Kiều có cảm giác mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.
Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy ra tai họa và thương tiếc thân mình vì vùi dập tan tác như hoa giữa đường. Những hình ảnh, từ ngữ đối lập đã đặc tả tâm trạng đau đớn, tủi hổ ê chề của Kiều. Quá khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. Dĩ vãng tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ. Trước kia, Kiều được nâng niu quý trọng bao nhiêu thì bây giờ nàng bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Sao là từ nghi vấn nhưng lại mang tính chất cảm thán, vừa được dùng trong hình thức đối vừa được dùng ở hình thức điệp: Khi sao, giờ sao, mặt sao, thân sao kết hợp với các thành ngữ mà từ ghép, từ láy được xé lẻ rồi đan chéo vào nhau như: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường tạo nên giọng thơ mà nỗi đau đớn ê chề như thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận khôn nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn vang vọng tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều - người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là các thế lực tàn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen. Tuy nhiên, thái độ của Kiều là không buông mình theo dòng đục, bởi nàng cảm nhận sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của người lương thiện bị vùi dập, đọa đày.
Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn lầu xanh:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh.
Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du, không chỉ có quá khứ đối lập với hiện tại mà bản thân cuộc sống hiện tại cũng chứa đựng sự đối lập. Cuộc đời kĩ nữ nhìn bề ngoài tưởng thanh cao, tao nhã: Đòi phen nét vẽ câu thơ, cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa; Đòi phen gió tựa hoa kề, nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu, nhưng thật là mỉa mai khi sự nhơ nhớp bẩn thỉu được che đậy bằng vẻ ngoài thơ mộng và hào nhoáng.
Sự đối lập ấy Kiều đã nhận ra bằng trái tim nhạy cảm của mình. Những từ gượng, thờ ơ, ngẩn ngơ thể hiện tâm trạng chẳng mặn mà, thậm chí bẽ bàng của Kiều trước thực tại. Một người vốn trung thực như Kiều mà lại phải vui là vui gượng để chiều khách làng chơi thì nỗi tủi, nỗi sầu càng sâu sắc, thấm thía hơn. Tưởng chừng như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Bằng sự thông cảm thực sự và bằng tài năng kì diệu. Nguyễn Du đã viết lên hai câu thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình trong văn chương Việt Nam.
Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sầu sắc về quá trình tự ý thức của con người cá nhân trong văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường được giáo dục theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu và nhẫn nhục. Khi nhân vật Giật mình mình lại thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mạng” Con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà bước đầu đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân.
Thương thân, xót phận là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII, nhưng Nguyễn Du viết về chủ đề này thấm thía hơn, sâu sắc hơn so với các tác giá khác. Sự thương mình chính là nền tảng của lòng thương người. Văn học dân gian có câu: Thương người như thể thương thân là vì thế. Không thể có tình thương sâu sắc, chân chính dành cho người khác nếu không có ý thức về bản thân, không biết thương chính bản thân mình.
Đoạn trích Nỗi thương mình cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã không né tránh thực tế nghiệt ngã, và đã đề cao nhân cách của Kiều, phẩm giá của Kiều bằng việc thể hiện thành công nỗi buồn thương, day dứt, chán chường của nàng giữa chốn bùn nhơ.
Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong nó toát lên ánh sáng của phẩm chất cao quý và chính cái bi thương ấy lại là lời tố cáo mãnh liệt tội ác của xã hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu đau khổ lên một kiếp người. Người đọc xót xa căm giận cái xã hội vạn ác và càng cảm phục, yêu thương khôn xiết người con gái tài hoa mà bất hạnh - Thúy Kiều.
Phân tích giá trị nhân đạo của đoạn trích "Nỗi thương mình"
Đề 4: Dàn ý phân tích giá trị nhân đạo trong “Nỗi thương mình”
I. Mở bài
- Giới thiệu vài nét về Nguyễn Du và Truyện Kiều
- Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện rõ nét qua đoạn trích Nỗi thương mình.
II. Thân bài
1. Giới thiệu khái quát:
- Vài nét về nguồn gốc ra đời Truyện Kiều, tài năng, tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du.
- Tóm tắt ngắn gọn Truyện Kiều.
- Nêu xuất xứ, vị trí đoạn trích.
- Khẳng định: giá trị nhân đạo trong đoạn trích thể hiện ở các khía cạnh:
- Tái hiện cuộc sống, cảnh ngộ bi kịch, bất hạnh của Thúy Kiều.
- Khắc họa sâu sắc tâm trạng dằn vặt, đau khổ về tinh thần của Thúy Kiều.
- Thái độ xót thương và trân trọng, sẻ chia của Nguyễn Du với Thúy Kiều nói riêng và người phụ nữ thời phong kiến nói chung.
2. Phân tích hai đoạn trích để làm rõ giá trị nhân đạo
Có hai cách: phân tích theo 3 luận điểm nêu trên hoặc phân tích lần lượt hai đoạn trích rồi khái quát lại 3 khía cạnh trên.
3. Nhận xét vài nét về nghệ thuật (góp phần đắc lực vào thể hiện tư tưởng nhân đạo);
Mở rộng quan điểm xót thương người phụ nữ của Nguyễn Du qua một số tác phẩm khác của ông.
III. Kết bài
- Đoạn trích đã tái hiện những giai đoạn đầy đau khổ trong cả cuộc đời dằng dặc những khổ đau của Thúy Kiều.
- Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã lên tiếng bênh vực quyền sống chính đáng của người phụ nữ và gián tiếp phê phán xã hội đầy ải họ gặp phải những oan khiên, bất hạnh.
- Cảm nhận riêng của mỗi người