Soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện - Kết nối tri thức
Haylamdo soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện trang 27 → trang 32 Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức sẽ giúp học sinh trả lời câu hỏi từ đó dễ dàng soạn văn 12.
Soạn bài Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện - Kết nối tri thức
So sánh hai tác phẩm văn học nhằm làm rõ một quy luật chung nào đó hay để nhìn nhận sâu hơn giá trị của từng tác phẩm là công việc quen thuộc của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Trong nhà trường phổ thông, điều đó cũng cần được thực hiẹne ở mức độ phù hợp vì nó có thể giúp bạn rèn luyện khả năng liên hệ, kết nối, huy động kiến thức, thiết lập cái nhìn tổng quan khi đi vào khám phá thế giới tác phẩm văn học. Ở bài học này, trước hết, bạn sẽ được làm quen với công việc nêu trên qua việc viết một bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện.
* Yêu cầu:
- Nêu được mục đích và cơ sở của việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện.
- Trình bày được các thông tin khái quát về hai tác phẩm truyện.
- Làm rõ được những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai tác phẩm truyện xét trên một số phương diện nội dung và hình thức cụ thể theo mục đích và phạm vi đã xác định.
- Rút ra được những nhận xét, đánh giá cần thiết, phù hợp về hai tác phẩm truyện căn cứ vào kết quả so sánh.
- Nêu được ý nghĩa của việc đánh giá hai tác phẩm truyện thông qua việc so sánh.
* Phân tích bài viết tham khảo:
1. Nêu cơ sở của việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm:
Viết về cùng đề tài, tiêu biểu cho những cách tiếp cận hiện thực chiến tranh của văn học trong một giai đoạn cụ thể.
2. Nêu mục đích của việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm
Sự thống nhất trong cảm hứng của hai nhà thơ, đồng thời thể hiện được những phong cách, dấu ấn riêng của hai nhà thơ
3. Trình bày luận điểm khái quát về nét chung của hai tác phẩm.
Đều viết vào thời gian kháng chiến chống Mỹ.
4. Trình bày những thông tin cần thiết về từng tác phẩm được so sánh: xuất xứ, bối cảnh câu chuyện, cốt truyện, nhân vật,…
- Xuất xứ: Mảnh trăng cuối rừng thuộc tập Những vùng trời khác nhau của Nguyễn Minh Châu; truyện Những đứa con trong gia đình thuộc Truyện và kí của Nguyễn Thi.
- Bối cảnh: hai truyện đều viết trong bối cảnh chống đế quốc Mỹ
- Cốt truyện: Mảnh trăng cuối rừng kể về câu chuyện tình yêu trong thời chiến còn Những đứa con trong gia đình kể về câu chuyện tình cảm gia đình.
5. Thông tin khái quát về Mảnh trăng cuối rừng.
Mảnh trăng cuối rừng thuộc tập Những vùng trời khác nhau của Nguyễn Minh Châu; viết trong bối cảnh chống đế quốc Mỹ; Mảnh trăng cuối rừng kể về câu chuyện tình yêu trong thời chiến.
6. Thông tin khái quát về Những đứa con trong gia đình.
Truyện Những đứa con trong gia đình thuộc Truyện và kí của Nguyễn Thi; viết trong bối cảnh chống đế quốc Mỹ; Những đứa con trong gia đình kể về câu chuyện tình cảm gia đình.
7. Phân tích cụ thể điểm tương đồng giữa hai tác phẩm: tính chất của sự miêu tả và cảm hứng sáng tác.
Đều gắng làm sáng tỏ chủ nghĩa anh hùng lên đời sống tinh thần của nhân dân trong thời chiến.
8. Phân tích nét riêng trong cách viết của từng tác phẩm - một vấn đề quan trọng cho thấy sự đa dạng của văn xuôi cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975.
Phong cách thời đại chi phối cách viết của tác giả, nhưng mỗi người đều gửi gắm trong đó những quan niệm, suy tư riêng.
9. Kết luận chung về giá trị của các tác phẩm và gợi mở cách nhìn nhận phù hợp về văn học của một gia đoạn đã qua.
Thời điểm đó, những tác phẩm đều mang những dấu ấn thời đại vô cùng rõ nét.
Thực hành các yêu cầu sau khi đọc bài viết tham khảo:
Câu 1 (trang 32 sgk Ngữ văn 12 Tập 1): Cơ sở của việc lựa chọn so sánh hai tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng và Những đứa con trong gia đình là gì?
Trả lời:
Cơ sở: Viết về cùng đề tài, tiêu biểu cho những cách tiếp cận hiện thực chiến tranh của văn học trong một giai đoạn cụ thể.
Câu 2 (trang 32 sgk Ngữ văn 12 Tập 1): Tác giả bài viết đã xác định mục đích so sánh hai tác phẩm như thế nào?
Trả lời:
Mục đích: Sự thống nhất trong cảm hứng của hai nhà thơ, đồng thời thể hiện được những phong cách, dấu ấn riêng của hai nhà thơ
Câu 3 (trang 32 sgk Ngữ văn 12 Tập 1): Các phương diện cơ bản nào của hai tác phẩm đã được đưa ra so sánh?
Trả lời:
Các phương diện: xuất xứ, bối cảnh câu chuyện, cốt truyện, nhân vật,…
Câu 4 (trang 32 sgk Ngữ văn 12 Tập 1): Đánh giá nào về đặc điểm, giá trị của từng tác phẩm được nảy sinh trên cơ sở so sánh?
Trả lời:
Những tác phẩm đều mang những dấu ấn thời đại vô cùng rõ nét.
* Thực hành viết theo các bước
1. Chuẩn bị viết
Gợi ý một số tác phẩm truyện có thể làm thành đối tượng so sánh của bài viết: Hoàng tử bé của Ăng-toan đơ Xanh-tơ - Ê-xu-pe-ri (Antoine de Saint - Exupéry) và vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ của Nguyễn Ngọc Thuần, Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng và Thời tho ấu của Mác - xim Go - rơ - ki (Maksim Gorky), Chí Phèo và Lão Hạc của Nam Cao, Vợ Nhặt của Kim Lân và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài…
Xác định mục tiêu:
- Hai tác phẩm có phải là những “mẫu” tiêu biểu, cho phép việc so sánh đạt được kết quả cần thiết hay không?
- Hai tác phẩm có những điểm gì khiến người đọc dễ liên hệ chúng với nhau?
- Bài viết có thể ưu tiên nhấn mạnh sự tượng đồng hoặc chỉ tập trung nói về sự khác biệt giữa hai tác phẩm.
2. Tìm ý, lập dàn ý
* Tìm ý
Để tìm ý cho bài văn so sánh, em cần thực hiện các bước sau:
- Vì sao khi đọc truyện này độc giả thường liên hệ đến truyện kia? (Xác lập cơ sở để so sánh hai tác phẩm truyện với nhau, giúp người viết có thể mở bài một cách thuận lợi).
- Sự tương đồng giữa hai truyện thể hiện trên những phương diện chủ yếu nào? (Lựa chọn các phương diện chủ yếu cần so sánh ở hai tác phẩm.)
- Điều gì dẫn đến sự “gặp gỡ” đó giữa hai tác phẩm truyện? (Vừa đi sâu cắt nghĩa nguyên nhân của sự tương đồng, vừa tạo được sự gắn kết giữa các đoạn viết về từng sản phẩm.)
- Dù có những điểm tương đồng, sự khác biệt giữa hai truyện vẫn thể hiện rõ. Sự khác biệt đó là gì? (Tìm ra nét độc đáo của từng tác phẩm.)
- Việc so sánh đưa lại được những khám phá mới nào về từng tác phẩm? (Ý nghĩa của việc so sánh hai tác phẩm truyện với nhau.)
* Lập dàn ý
- Mở bài: Giới thiệu hai tác phẩm truyện được xác định là đối tượng của sự so sánh, đánh giá, nêu mục đích và cơ sở của việc so sánh, đánh giá này.
- Thân bài: Cần triển khai các ý:
+ Thông tin chung về từng sản phẩm: hoàn cảnh ra đời, đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, vị trí của tác phẩm trong đời sống văn học,..
+ Những điểm tương đồng giữa hai tác phẩm truyện và nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng ấy.
+ Những điểm khác biệt giữa hai tác phẩm truyện và điều kiện làm nên sự khác biệt ấy.
- Kết bài: Nêu ý nghĩa của việc đánh giá các tác phẩm truyện khi đặt chúng trong tương quan so sánh.
3. Viết bài
- Để làm sáng tỏ các luận điểm, cần chú ý khai thác bằng chứng từ những phương diện khác nhau của hai tác phẩm truyện, bao gồm: đề tài, chủ đề, cảm hứng, cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu,… Khi trích dẫn văn bản truyện hay một bài phê bình, đánh giá nào đó về truyện, cần đảm bảo yêu cầu chính xác, khách quan.
- Tránh biến bài viết thành một văn bản mang tính chất lắp ghép máy móc, gồm hai “bài” nhỏ phân tích từng tác phẩm riêng biệt.
- Thường xuyên chú ý mạch lạc, liên kết của bài viết và thực hiện việc ngắt đoạn phù hợp để người đọc dễ theo dõi hệ thống luận điểm.
Bài viết tham khảo
So sánh hai đoạn kết truyện “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ”
Tô Hoài và Kim Lân đều là một trong những tác giả tiêu biểu của văn xuôi thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm của họ đều lấy cảm hứng từ cuộc sống hiện thực của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng tám. Hai tác phẩm “Vợ Nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” tuy phản ánh số phận của hai người nông dân khác nhau nhưng đều mang một kết thúc mở. Nơi mà niềm hy sinh về cuộc sống mới tự do và hạnh phúc của họ được gửi gắm. Kết truyện không chỉ là những tình tiết khép lại câu chuyện mà còn là nơi mà các nhà văn thể hiện những quan niệm, tư tưởng và mở ra những con đường cho nhân vật của mình. Nếu kết thúc truyện Chí Phèo là sự giải thoát cho một kiếp người bị tha hóa bởi xã hội thì cái kết của "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" lại được nhà văn Kim Lân, Tô Hoài mở ra bằng một hướng đi mới cho những số phận đau khổ cho những con người trong hai tác phẩm đó.
Hai tác phẩm "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" là hai tác phẩm tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của hai tác giả. Nếu như Kim Lân viết về tình cảnh thê thảm, tang thương của những người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945 thì Tô Hoài lại viết về cuộc sống tủi nhục, tối tăm của những người nông dân nghèo vùng núi Tây Bắc. Tuy khác nhau về chủ đề và cách thức thể hiện nhưng cả hai tác phẩm đều có những nét tương đồng, cả hai truyện ngắn đều viết về cuộc sống và số phận của những người nông dân nghèo; đều thể hiện sự đồng cảm, trân trọng của nhà văn với số phận và vẻ đẹp của các nhân vật, điều này được thể hiện rõ nét qua phần kết của hai tác phẩm.
Truyện ngắn "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân được viết năm 1954 về cuộc sống của những người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nhân vật chính của câu chuyện là Tràng - một người đàn ông nghèo khổ, xấu xí sống trong xóm Ngụ Cư. Trước sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của mọi người, Tràng bất ngờ có vợ ngay khi nạn đói đang hoành hành dữ dội nhất. Truyện kết thúc trong chi tiết bữa cơm thảm hại ngày đói của gia đình Tràng: "có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo" và tiếng tiếng trống thúc thuế dồn dập. Trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh những dòng người "ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm".
Kết thúc của Vợ nhặt được Kim Lân lấy cơ sở từ chính hiện thực cuộc sống của đất nước ta lúc bấy giờ. Bởi sau nạn đói năm 1945, cả đất nước ta đang chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành lấy chính quyền và tiên phong chính là phong trào đi phá kho thóc Nhật để chia cho dân nghèo. Những người nông dân cả đời chân lấm tay bùn, họ ít học, ít hiểu, thế những cái đói khát cùng cực đã giúp họ nhận rõ kẻ thù của mình, đó chính là thực dân Pháp và Phát xít Nhật. Trong khi thực dân Pháp thực hiện chính sách vơ vét của cải thì bọn phát xít Nhật lại bắt dân ta "nhổ cỏ trồng đay", đây cũng chính là nguyên nhân chính gây ra thảm họa nạn đói khủng khiếp 1945 cho dân tộc Việt Nam. Sống trong đói khát, trong cái chết rình rập nên những người nông dân đã ý thức được và tìm cách đấu tranh giành lấy sự sống. Và họ đến với cách mạng như một điều tất yếu, một lẽ đương nhiên. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân không thể hiện rõ ràng rằng Tràng có đi theo "lá cờ đỏ" ấy không, nó chỉ mở ra một hướng liên tưởng cho người đọc. Thế nhưng phải chăng qua cái "kết thúc mở" ấy, nhà văn Kim Lân muốn cho người đọc hiểu rằng cuộc đời của các nhân vật trong câu chuyện của mình rồi sẽ thay đổi nếu như họ bắt gặp được ánh sáng Cách mạng? Cuộc đời của Tràng mở ra bằng ánh chiều tà chập choạng với những cảnh "đói sầm vì đói khát", thế nhưng khi kết thúc lại là ánh bình minh của người mới với hình ảnh của "lá cờ đỏ" kia. Tuy là một kết thúc mở nhưng nó đã gieo vào lòng chúng ta niềm tin mãnh liệt vào sự đổi đổi của Tràng, của gia đình Tràng, của hàng ngàn người dân nghèo khác.
Với "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài lại dẫn người đọc đến với cuộc sống của những người nông dân nghèo vùng Tây Bắc. Nhân vật chính trong truyện là Mị và A Phủ. Nếu như Mị là cô "con dâu gạt nợ" nhà thống lý Pá Tra, phải sống kiếp "con trâu, con ngựa", bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần thì A Phủ trở thành người ở không công cho nhà thống lí chỉ vì đánh nhau với con quan. Hai con người đau khổ ấy gặp nhau, cảm thông, thấu hiểu cho nhau từ những giọt nước mắt và họ đã quyết định giải thoát cho nhau khỏi thân phận nô lệ.
Truyện kết thúc ở chi tiết Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ và vụt chạy theo A Phủ để giải phóng chính mình. Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở về với cuộc sống lầm lũi, cam chịu như trước kia. Trong một lần "thổi lửa hơ tay", Mị đã bắt gặp "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ. Chính dòng nước mắt ấy đã làm cho Mị bừng tình, nhận thức được quyền sống của mỗi con người, nhận thức được sự độc ác của giai cấp thống trị. Vậy nên Mị đã "rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây" cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ và thả A Phủ chạy thoát. Thế nhưng chỉ vài phút "đứng lặng trong bóng tối", Mị cũng "vụt chạy ra" theo A Phủ. Và rồi hai con người khốn khổ ấy "lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi". Sau này, hai người trở thành vợ chồng và dưới ánh sáng của cách mạng, họ cùng nhau chiến đấu bảo vệ quê hương.
Cái kết của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã cho chúng ta thấy được sự đồng cảm sâu sắc giữa những con người khốn khổ, cho ta thấy được sức sống tiềm tàng của họ, nhận thực sâu sắc của họ về quyền sống, quyền được tự do và hạnh phúc cùng với đó là tinh thần đấu tranh với bọn địa chủ phong kiến. Nếu như trước đây, Mị sống "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", sống vô cảm, vô hồn thì giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức trong tâm hồn Mị ý thức về sự sống. Hành động cắt đứt dây trói giải thoát cho A Phủ của Mị cũng là sự giải thoát cho chính bản thân mình. Giọt nước mắt ấy đã đánh thức khao khát sống tự do, hạnh phúc của cô. Và rồi hai con người đau khổ của đất Hồng Ngài đã dẫn nhau "lẳng lặng" "lao chạy xuống dốc núi" trốn thoát khỏi những hủ tục phong kiến, những sự thống trị tàn bạo và dã man, đó là sự tự ý thức của họ về quyền sống, tự do của một con người.
Tuy hai nhà văn Kim Lân và Tô Hoài viết về hai đề tài khác nhau nhưng cách kết thúc trong hai truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" và "Vợ nhặt" lại có những điểm tương đồng. Đầu tiên đó là hai cái kết đều mở ra một tương lai mới tươi sáng và tự do cho người nông dân nghèo khổ. Cả hai nhà văn đều hướng những nhân vật của mình đến với ánh sáng của cách mạng với hy vọng chắc chắn rằng cách mạng sẽ giúp họ đổi đời. Tuy có nhiều điểm giống nhau nhưng Vợ nhặt và Vợ chồng A Phủ cũng có những điểm khác biệt rất rõ ràng. Nếu như Vợ nhặt là hình ảnh của những người nông dân phải sống trong đói nghèo, trong cái chết rình rập, họ thấy được tội ác của bọn phát xít thực dân để từ đó hình ảnh "lá cờ đỏ" cùng đoàn người đi "phá kho thóc Nhật" in đậm trong tâm trí họ, cho họ thấy được con đường thoát khỏi đói nghèo thì Vợ chồng A Phủ lại cho ta thấy sức sống tiềm tàng của những người nông dân, họ tự vùng lên để giải thoát cho chính mình.
Hai chi tiết, hai cái kết trong Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt là khác nhau nhưng ta thấy rõ được những tâm tư, những tình cảm, những giá trị nhân đạo mà cả Kim Lân và Tô Hoài đều hướng tới. Đó là lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc trước những số phận đau khổ bị đày đọa bởi đói nghèo, bởi giai cấp thống trị. Để từ đó hướng họ tới một tương lai tươi sáng hơn khi họ vùng lên dưới ánh sáng cách mạng.
4. Chỉnh sửa, hoàn thiện
- Đối chiếu với yêu cầu của bài và dàn ý đã lập để thực hiện những chỉnh sửa cần thiết nhằm hoàn thiện văn bản về mặt nội dung.
- Rà soát, khắc phục những lỗi về chính tả, diễn đạt và trình bày để bài viết đáp ứng được những đòi hỏi về chuẩn mực hình thức.