Soạn bài Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện - Kết nối tri thức
Haylamdo soạn bài Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện trang 34, 35, 36 Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức sẽ giúp học sinh trả lời câu hỏi từ đó dễ dàng soạn văn 12.
Soạn bài Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện - Kết nối tri thức
- Nêu tên hai tác phẩm truyện được đưa ra để so sánh, đánh giá và nói rõ lí do chọn hai tác phẩm này.
- Xác định rõ cơ sở so sánh và phạm vi các phương diện cần so sánh ở hai tác phẩm truyện.
- Nêu cách thức đã thực hiện khi so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện.
- Trình bày một số kết quả so sánh, đánh giá nổi batah (có phân tích các dẫn chứng tiêu biểu).
- Khái quát được ý nghĩa của việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện.
1.Chuẩn bị nói:
a. Lựa chọn đề tài
- Đề tài của bài nói có thể là đề tài của bài viết được bạn thực hiện trước đó. Nếu vậy, bạn cần đọc lại bài viết, rút gọn bài viết thành một dàn ý bài nói, có điều chỉnh theo hướng phù hợp với hoạt động nói và nghe.
- Nếu bạn chọn đề tài mới thì việc chuẩn bị phải công phu hơn. Bạn cần thực hiện nghiêm túc quy trình: Chọn đọc hai tác phẩm phù hợp -> so sánh -> hình thành luận điểm đánh giá về từng tác phẩm trên cơ sở so sánh -> xây dựng dàn ý bài nói (viết trên giấy hay thể hiện bằng các slide dùng để trình chiếu).
b. Tìm ý và sắp xếp ý
- Bám sát các yêu cầu về hoạt động nói và nghe của bài học đã nêu ở trên để tự đặt ra những câu hỏi tìm ý phù hợp.
- Ý nói về “cách thức đã thực hiện khi so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện” cần bao gồm các thông tin: bạn đã tập trung chú ý phương diẹn e nào của hai tác phẩm được đưa ra để so sanh? Việc lập phiếu ghi chép các dự liệu cần thiết được tiến hành ra sao?
- Các ý cơ bản của bài nói có thể được sắp xếp theo hình thức tuyến tính hoặc được tổ chức dưới dạng một bảng so sánh hay được thể hiện bằng sơ đồ tổng hợp.
2. Thực hành nói
- Bài nói tuân thủ dàn ý đã chuẩn bị với kết cấu gồm ba phần: Mở đầu, Triển khai, kết luận. Trong khi nói, có thể đưa thêm những ý tưởng mới nảy sinh nhưng tránh sa đà.
- Cần giúp người nghe hiểu rõ mục đích của việc so sánh hai tác phẩm truyện với nhau, thường xuyên quan tâm trả lời câu hỏi: so sánh để làm gì?
- Nêu điều kiện cho phép, nên sử dụng bảng hay sơ đồ so sánh hoặc trình chiếu các slide, giúp người nghe có được cái nhìn tổng quan về nội dung trình bày.
Bài tham khảo:
Xin chào thầy cô và các bạn. Tôi là …………………. Học sinh lớp….. Trường ………………………….
Các bạn thân mến! Tô Hoài và Kim Lân, hai tác giả nổi tiếng thời kháng chiến chống Pháp, viết về cuộc sống nông dân Việt trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm "Vợ Nhặt" và "Vợ Chồng A Phủ" kết thúc mở, đặt hy vọng vào một cuộc sống mới cho nhân vật. Điều này tạo ra một khía cạnh mới trong văn học so với việc chỉ giải thoát cho nhân vật khỏi gò bó xã hội.
Cả hai tác phẩm “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” là biểu tượng của sự sáng tạo của hai tác giả. Trái với việc Kim Lân mô tả đau đớn của người nông dân trong đói năm 1945, Tô Hoài lại tập trung vào cuộc sống khốn khó của người nông dân vùng núi Tây Bắc. Mặc dù khác biệt về chủ đề và phong cách, nhưng cả hai tác phẩm đều nêu lên số phận của người nông dân nghèo, thể hiện sự đồng cảm và tôn trọng của tác giả với họ. Điều này được thấy rõ qua phần kết của cả hai.
"Vợ nhặt" của Kim Lân, viết năm 1954, tường thuật về cuộc sống nông dân Bắc Bộ trong đại nạn đói năm 1945. Nhân vật chính là Tràng, một người nghèo sống tại xóm Ngụ Cư. Mặc dù gây bất ngờ cho mọi người, Tràng đã có vợ ngay khi nạn đói đang diễn ra gay gắt. Câu chuyện kết thúc với hình ảnh bữa cơm thảm hại của gia đình Tràng: "có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo", cùng tiếng trống thuế vang vọng. Trong đầu Tràng hiện lên hình ảnh những dòng người "kéo nhau đi trên đê Sộp, với lá cờ đỏ lớn."
Kết thúc của "Vợ nhặt" của Kim Lân dựa trên thực tế cuộc sống Việt Nam vào thời điểm đó. Năm 1945, dân ta chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa chống đối chính quyền, và phong trào phá kho thóc Nhật đã bắt đầu. Cuộc đói đến từ chính sách cướp của Pháp và cải cách "nhổ cỏ trồng đay" của Nhật. Dưới sự đe dọa của cái chết, người nông dân tự ý thức và tham gia cuộc đấu tranh. Mặc dù không rõ liệu Tràng đã tham gia "lá cờ đỏ" hay không, câu chuyện mở ra cơ hội cho sự liên tưởng. Kết thúc mở này thể hiện niềm tin vào sự thay đổi của nhân vật, gia đình, và hàng ngàn người dân nghèo khác.
Với "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài lại dẫn người đọc đến với cuộc sống của những người nông dân nghèo vùng Tây Bắc. Nhân vật chính trong truyện là Mị và A Phủ. Nếu như Mị là cô "con dâu gạt nợ" nhà thống lý Pá Tra, phải sống kiếp "con trâu, con ngựa", bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần thì A Phủ trở thành người ở không công cho nhà thống lí chỉ vì đánh nhau với con quan. Hai con người đau khổ ấy gặp nhau, cảm thông, thấu hiểu cho nhau từ những giọt nước mắt và họ đã quyết định giải thoát cho nhau khỏi thân phận nô lệ.
Truyện kết thúc ở chi tiết Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ và vụt chạy theo A Phủ để giải phóng chính mình. Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở về với cuộc sống lầm lũi, cam chịu như trước kia. Trong một lần "thổi lửa hơ tay", Mị đã bắt gặp "một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ. Chính dòng nước mắt ấy đã làm cho Mị bừng tình, nhận thức được quyền sống của mỗi con người, nhận thức được sự độc ác của giai cấp thống trị. Vậy nên Mị đã "rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây" cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ và thả A Phủ chạy thoát. Thế nhưng chỉ vài phút "đứng lặng trong bóng tối", Mị cũng "vụt chạy ra" theo A Phủ. Và rồi hai con người khốn khổ ấy "lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi". Sau này, hai người trở thành vợ chồng và dưới ánh sáng của cách mạng, họ cùng nhau chiến đấu bảo vệ quê hương.
Cái kết của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã cho chúng ta thấy được sự đồng cảm sâu sắc giữa những con người khốn khổ, cho ta thấy được sức sống tiềm tàng của họ, nhận thực sâu sắc của họ về quyền sống, quyền được tự do và hạnh phúc cùng với đó là tinh thần đấu tranh với bọn địa chủ phong kiến. Nếu như trước đây, Mị sống "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa", sống vô cảm, vô hồn thì giọt nước mắt của A Phủ đã đánh thức trong tâm hồn Mị ý thức về sự sống. Hành động cắt đứt dây trói giải thoát cho A Phủ của Mị cũng là sự giải thoát cho chính bản thân mình. Giọt nước mắt ấy đã đánh thức khao khát sống tự do, hạnh phúc của cô. Và rồi hai con người đau khổ của đất Hồng Ngài đã dẫn nhau "lẳng lặng" "lao chạy xuống dốc núi" trốn thoát khỏi những hủ tục phong kiến, những sự thống trị tàn bạo và dã man, đó là sự tự ý thức của họ về quyền sống, tự do của một con người.
Dù Kim Lân và Tô Hoài viết về các đề tài khác nhau, kết thúc của "Vợ chồng A Phủ" và "Vợ nhặt" có những điểm chung. Cả hai tác giả đều mở ra một tương lai sáng sủa và tự do cho người nông dân nghèo. Họ dẫn nhân vật của mình đến với ánh sáng của cách mạng, hy vọng vào một cuộc sống mới. Tuy nhiên, "Vợ nhặt" tập trung vào khổ đau của người nông dân dưới bóng đe doạ của phát xít thực dân, trong khi "Vợ chồng A Phủ" thể hiện sức mạnh nội tại của họ khi tự giải thoát khỏi tình thế khó khăn.
Hai chi tiết, hai cái kết trong Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt là khác nhau nhưng ta thấy rõ được những tâm tư, những tình cảm, những giá trị nhân đạo mà cả Kim Lân và Tô Hoài đều hướng tới. Đó là lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc trước những số phận đau khổ bị đày đọa bởi đói nghèo, bởi giai cấp thống trị. Để từ đó hướng họ tới một tương lai tươi sáng hơn khi họ vùng lên dưới ánh sáng cách mạng.
Trên đây là phần trình bày của tôi về việc so sánh, đánh giá kết thúc hai tác phẩm "Vợ Nhặt" và "Vợ Chồng A Phủ". Mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Cảm ơn mọi người đã chú ý lắng nghe.