X

Soạn văn 9 Kết nối tri thức

Chọn phân tích một tác phẩm thơ song thất lục bát mà em yêu thích.


Câu hỏi:

Chọn phân tích một tác phẩm thơ song thất lục bát em yêu thích. 

Trả lời:

Cảnh chia ly của những cặp vợ chồng trẻ luôn chạm đến trái tim người đọc một cảm giác đau thắt, hiu quanh. Nếu như trong Tống biệt hành, người con gái đang tiễn người chồng đi tìm cái tưởng cao đẹp: “Đưa người ta không đưa sang sông/ Sao tiếng sóngtrong lòng?thì trong 12 khổ thơ cuối của đoạn trích Nỗi niềm chinh phụ của Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm dịch, cũng người vợ ấy, cũng người con trai đang tìm công danh ấy, nhưng sao thật đắng cay, bởi người chồng đang cất bước ra chiến trường. Cả đoạn thơ lời than thở, buồn đau, hi vọng được gặp chồng của người chinh phụ khitống biệtchồng ra trận: 

Chàng thì đi cõi xa mưa gió 

Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà. 

 

Ngàn dâu xanh ngắt một màu, 

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” 

        Mười hai câu thơ trên thuộc phần cuối của đoạn trích Nỗi niềm chinh phụ, trích trong tác phảm Chinh phụ ngâm, nguyên tác của Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Tuy nhiên, cho đến nay, bản dịch này chắc chắn của Đoàn Thị Điểm không lại vấn đề chưa ai dám khẳng định, nhưng phần đông các nhà nghiên cứu đều cho rằng người dịch nguyên tác của Đặng Trần Côn ra chữ Nôm. Tác phẩm Chinh phụ ngâm (hay Khúc ngâm của người phụ nữ chồng ra trận) được Đặng Trần Côn sáng tác trong khoảng năm 1710 - 1712 bằng chữ Hán. Cả bài ngâm khúc lời tâm sự, giãi bày của người chinh phụ tiễn chồng ra trận. Trong mười hai câu thơ cuối bài, nỗi niềm ai oán, nhớ nhung của người chinh phụ càng đậm nét hơn cả. 

      Người chinh phụ mang nỗi hờn tủi, quạnh sau khi tiễn chồng đi: 

Chàng thì đi cõi xa mưa gió, 

Thiếp thì về buồng chiếu chăn.” 

Thủ pháp đối được tác giả sử dụng cùng tài tình ý nhị. Chàng thìđi”, còn thiếp thìvề”, nơi chàng đi cõi xa mưa gió”, nơi nàng về buồng chiếu chăn”. Khoảnh cách giữa người chinh phụ người chinh phu ngày càng bị kéo dài ra.cõi xa mưa gió hình ảnh ẩn dụ, chỉ nơi chiến trường người chinh phu phải đến, hoặc cũng thể, đây hình ảnh chỉ sự hi sinh của người chinh phu trên trận mạc. Còn hình ảnhbuồng chiếu chăn” ý chỉ nơi hai vợ chồng từng mặn nồng với nhau, giờ đây chỉ còn lại mình nàng. Người chinh phụ phải đơn lẻ bóng, lo lắng chồng mìnhchiến trường, không biết rồi mai, liệu chồng còn trở về bên mình. 

        Người chinh phụ nhìn mãi, ngóng theo chồng nơi xa, nhưng càng trông theo lại càng không thấy bóng dáng chồng: 

Đoái trông theo đã cách ngăn, 

Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh.” 

Nàng nhìn về phía chồng, không thấy đạn khói của chiến tranh, chỉ thấymây biếcnúi xanh”. Màu xanh bao trùm lấy hai câu thơ, không chỉ miêu tả khung cảnh trước mắt người chinh phụ, còn gợi cảm giác heo hút, lãnh lẽo, đơn trong cõi lòng của nàng. Biện pháp đảo ngữtuôn màu mây biếctrải ngần núi xanhkhiến không gian thiên nhiên như trải dài tận 

        Xa mặt nhưng không cách lòng, người chinh phụ người chinh phu luôn nhớ đến nhau: 

Chốn Hàm Kinh chàng còn ngoảnh lại. 

Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang. 

Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương, 

Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.” 

Hàm Dương bến Tiêu Tươngcách mấy trùng”, nhưng hai ngườihai bên luôn gửi những nỗi nhớ mong, hi vọng cho nhau. Người chinh phungoảnh lại”, nhìn về phía quê nhà, nơi vợ con đang ngóng chông chàng. Trước khi lên ngựa đi xa, chàng bịn rịn vợ con: “Nhủ rồi nhủ lại cầm tay,/ Bước đi một bước dây dây lại dừng”, chàng đi một bước, lại ngoảnh đầu nhìn người vợ một lúc. giờ đây, khi đã ra chiến trường, chàng cũng vẫn ngoảnh đầu nhớ thương vợ. Còn người chinh phụnhà luôntrông sang”, trông đến nơi chiến trường đổ máu. Biện pháp đối tài tình vẫn tiếp tục được sử dụng trong các câu thơ, như đang thể hiện sự đối lập giữa hoàn cảnh của hai người, nhưng lại sợi dây hình gắn kết trái tim của người chinh phu người chinh phụ. 

           Niềm hi vọng chồng trở về của người chinh phụ ngày càng le lói, thay vào đó nỗi nhớ đến đỉnh điểm, nỗi đau đớn dâng trào: 

Cùng trông lại cùng chẳng thấy, 

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu. 

Ngàn dâu xanh ngắt một màu, 

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” 

Màu xanh lại xuất hiện trong mắt người chinh phụ, nhưng đây không phải màu xanh tươi mát của bầu trời, màu xanh ngắt trải dài của ruộng dâu. Biện pháp điệp ngữcùng”, điệp từthấy”,ngàn dâunhư đang diễn tả sự luẩn quẩn, sự sầu đau không thể diễn tả của người chinh phụ. Nàng nhìn ra xa, ngóng chồng mãi, nhưng chỉ thấy ruộng dâu xanh ngắt. Một cảm giác đơn, hiu quạnh ngập tràn trong lòng người đọc. Cũng dùng màu sắc để diễn tả cuộc chia tay, nhưng lẽ, sắc đỏ trong bài thơ Cuộc chia ly màu đỏ của Nguyễn My phần nào mang cảm giác hi vọng hơn: “Tôi nhìn thấy một áo đỏ/ Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa.” Kết thúc đoạn thơ một câu hỏi tu từ mãi sẽ không bao giờ câu trả lời: “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”. Thiếp chàng đều mang trong mình những nỗi đau khắc khoải, không biết chàng hay thiếp, ai mang nỗi sầu đau hơn? Câu hỏi cất lên như giãi bày hết mọi sầu đau, như tiếng thét đau đớn tột cùng cất lên 

        Như vậy, với cách sử dụng biện pháp đảo ngữ, phép đối, câu hỏi tu từ hết sức khéo léo, ngôn ngữ bình dân kết hợp với ngôn ngữ bác học, Đặng Trần Côn đã diễn tả sâu sắc hơn nỗi niềm xót thương, lo lắng, nhớ nhung chồng ai oán cho thân phận mình của người chinh phụ. Qua đó, ta càng hiểu hơn về những mất mát chiến tranh đã gây ra với nhân dân ta. 

Xem thêm lời giải bài tập Soạn Văn 9 Kết nối tri thức hay, chi tiết:

Câu 1:

Những nỗi niềm xúc cảm của người chinh phụ (Chinh phụ ngâm) khách tha hương (Tiếng đàn mưa) điểm chung nào không? sao? 

Xem lời giải »


Câu 2:

Điều khiến thể thơ song thất lục bát thế mạnh khi thể hiện những nỗi niềm, xúc cảm, những khát vọng riêng của con người? 

Xem lời giải »


Câu 3:

Tìm đọc một tác phẩm thơ song thất lục bát nội dung đề cập tới thân phận người phụ nữ. Thân phận người phụ nữ trong các tác phẩm đó điểm giống nhau với thân phận người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm? 

Xem lời giải »