X

Soạn văn 9 Kết nối tri thức

Truyện thơ nôm như nào?


Câu hỏi:

Truyện thơ nôm như nào?

Trả lời:

1. Truyện thơ Nôm 

- Truyện thơ Nôm thể loại tự sự bằng thơ, được viết bằng chữ Nôm; hình thành vào khoảng thế kỉ XVI - XVII, phát triển mạnh đạt được nhiều thành tựu to lớn vào cuối thế kỉ XVII nửa đầu thế kỉ XIX. Ở giai đoạn đầu, một số truyện thơ Nôm được sáng tác bằng thể thơ Đường luật hoặc song thất lục bát; sau đó các tác giả chủ yếu sử dụng thể thơ lục bát. 

- Truyện thơ Nôm đề tài, chủ đề rộng mở, phong phú, giàu cảm hứng nhân đạo giá trị hiện thực sâu sắc. Cốt truyện của truyện thơ Nôm thường được triển khai theo trình tự thời gian với hình bản: gặp gỡ - chia li - đoàn tụKhi tiếp thu nguồn cốt truyện từ văn học dân gian hoặc văn học Trung Quốc, các tác giả truyện thơ Nôm đã những đóng góp riêng. Một số truyện thơ Nôm lấy đề tài từ đời sống thực tế cốt truyện do tác giả tự sáng tạo. 

- Nhân vật chính trong truyện thơ Nôm những gái, chàng trai vẻ đẹp toàn diện (hình thể, tâm hồn, đức hạnh, trí tuệ, tài năng…) nhưng cuộc sống thường gặp nhiều trắc trở, gian nan. Những gian nan, trắc trở ấy không chỉ phản ánh thực trạng hội đương thời còn cáinềnđể các tác giả làm nổi bật vẻ đẹp của con người, đặc biệt người phụ nữ (hiếu thảo, thủy chung, giàu lòng nhân hậu, đức hi sinh, dung cảm, mạnh mẽ, kiên cường đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc, giữ gìn phẩm giá). Nhiều nhân vậy đươc khắc họacả hai phương diện: con người bên ngoài (ngoại hình, lời nói, cử chỉ, hành động…) con người bên trong (cảm xúc, suy nghĩ, diễn biến tâm …). Đặc biệt, lời thoại của nhân vật đã được chú ý ở cả hai hình thức: đối thoại độc thoại. Trong một số tác phẩm, lời thoại đã được thể hóa trở thành phương tiện thể hiện tính cách nhân vật. Nhiều tác giả truyện Thơ Nôm đã sử dụng thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình để thể hiện thế giới nội tâm nhân vật. 

- Truyện thơ Nôm thể loại đóng góp to lớn vào việc phát triển ngôn ngữ văn học thể thơ lục bát của dân tộc. Trong các tác phẩm đỉnh cao, ngôn ngữ truyện thơ Nôm giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân, đượctinh chếbởi ngòi bút tài hoa, điêu luyện của tác giả; thể thơ lục bát được hoàn thiện đạt tới sự nhuần nhuyễn, không chỉ khả năng biểu đạt mọi cung bậc tình cảm tinh tế của con người còn đảm nhận xuất sắc chức năng kể chuyện. 

2. Lời đối thoại lời độc thoại trong văn bản truyện 

- Lời đối thoại hình thức thể hiện của lời nhân vật khi đối tượng hướng đến một hoặc nhiều người tham gia giao tiếp trực tiếp. 

- Lời độc thoại hình thức thể hiện của lời nhân vật, khi đối tượng hướng đến không phải người tham gia đối thoại trực tiếp. Trong kịch, độc thoại được sử dụng để nhân vật tự nói với chính mình, khản giả chỉ ngườinghe trộm”, nhờ đó biết được những cảm xúc sâu kín của nhân vật. Trong truyện (bao gồm truyện thơ), đặc biệt trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, độc thoại được sử dụng để tái hiện tiếng nói nội tâm hay trạng thái cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật. Lúc này, độc thoại được gọi bằng thuật ngữ độc thoại nội tâm. 

3. Chữ Nôm chữ quốc ngữ 

- Chữ Nôm: chữ viết cổ dùng để ghi âm tiếng Việt, được công cha ta sáng tạo dựa theo hiệu văn tự Hán. Chữ Nôm được hình thành vào khoảng thế kỉ X đã được sử dụng để sáng tác thơ văn khoảng từ thế kỉ XII - XIII. Sự ra đời của chữ Nôm thể hiện tinh thần tự cường, tự tôn dân tộc; đánh dấu bước phát triển vượt bậc về văn hóa khẳng định vị trí, vai trò của tiếng Việt. Nhiều tác giả đã sử dụng chữ Nôm để sáng tạo nên những tác phẩm kiệt xuất, xây dựng những thể loại đặc sắc cho nền văn học trung đại Việt Nam: thơ Nôm Đường luật (Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Huyện Thanh Quan, Trần Tế Xương…); truyện thơ Nôm (Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Phạm Thái...); ngâm khúc (Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Cao Bá Nhạ...); hát nói (Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh,…). Hàn Thuyên dược cho người công đầu tiên trong việc phát triển, phổ biến chữ Nôm. 

- Chữ quốc ngữ: chữ viết dùng chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt. Chữ quốc ngữ được hình thành từ đầu thế kỉ XVII, trong quá trình các tu Dòng Tên truyền đạo Thiên Chúa tại Việt Nam. Trong đó, những người công lớn nhất giáo Phran-xít-cxô đờ Pi-na giáo A-lếch-xăng-đờ Rốt. Nhiều trí thức người Việt đã đóng góp quan trọng trong việc truyền , phổ biến chữ quốc ngữ thời đầu như: Trương Vĩnh , Huỳnh Tịnh Của… Sau khi ra đời, chữ quốc ngữ được chỉnh , thay thế dần chữ Hán chữ Nôm; đến đầu thế kỉ XX, trở thành văn tự chính thức của quốc gia.