SBT Ngữ Văn 9 Bài tập 2 trang 26 - Kết nối tri thức
Đọc lại văn bản Văn hoá hoa – cây cảnh trong SGK (tr. 96 – 99) và trả lời các câu hỏi:
Giải SBT Ngữ Văn 9 Bài tập 2 trang 26 - Kết nối tri thức
Bài tập 2 trang 26 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Đọc lại văn bản Văn hoá hoa – cây cảnh trong SGK (tr. 96 – 99) và trả lời các câu hỏi:
Trả lời:
Tuy là một yếu tố quan trọng cấu thành văn bản, nhưng nhiều khi nhan đề chỉ mang tính chất gợi hướng cảm nhận, suy luận, không nhất thiết phải “thâu tóm” được đầy đủ nội dung hay tinh thần của văn bản, miễn những điều triển khai sau đó không đi chệch ra ngoài cái hướng do chính nó gợi ra. Trong ngữ cảnh cụ thể của văn bản, các khái niệm thú hay văn hoá có thể mang nghĩa tương đương, tuỳ thuộc vào cách tác giả quan niệm hoặc làm rõ nội dung của khái niệm thú (suy cho cùng, đằng sau mỗi cái thú luôn có một nền tảng văn hoá nào đó).
Trả lời:
Khi trả lời về sau của câu hỏi, đầu tiên, em cần tự đặt cho mình một số câu hỏi tìm ý như: Phải chăng thiên nhiên thứ hai là thứ thiên nhiên có sẵn? Có phải ngay từ thuở ban sơ, con người đã tạo được thiên nhiên thứ hai? Thiên nhiên thứ hai xuất hiện khi nào và sau những hoạt động gì của con người? Cần chú ý các từ khoá đã được tác giả nhắc đến như lệ thuộc, ứng biến – thích ứng, biến đổi xây dựng để có thể vẽ ra sơ đồ đơn giản về lịch sử phát triển của loài người (xét theo quan hệ giữa con người với tự nhiên, thiên nhiên).
Trả lời:
Khi nói về cách ứng xử của người Việt với thiên nhiên, tác giả đã triển khai những thông tin chính là:
+ Thông tin về các công trình nhân tạo được bố trí hài hoà với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp.
+ Thông tin về sự tồn tại trải đều trên nhiều vùng đất của các làng, trại, chợ hoa – cây cảnh.
+ Thông tin về cách người Việt đưa thiên nhiên vào mỗi ngôi nhà, vào từng không gian cư trú riêng tư.
Trả lời:
Câu hỏi nhắc em ghi lại những liên tưởng nảy sinh khi đọc chuỗi dẫn chứng được tác giả đưa ra trong các đoạn nói về văn hoá hoa – cây cảnh của người Việt. Đó phải là những câu thơ, văn khái quát về tình cảm của con người đối với thiên nhiên hay những từ ngữ mang tính ẩn dụ thể hiện cách nhìn thiên nhiên như đối tượng có linh hồn. Các ngữ liệu mới mà em chợt nghĩ đến hay vừa tìm ra có thể được đặt xen kẽ hoặc tiếp nối chuỗi dẫn chứng do tác giả nêu sau từng thông tin khái quát. Ví dụ: Có thể bổ sung câu thơ sau đây để minh hoạ cho ý nói về việc người Việt biết chọn nơi non nước hữu tình để xây dựng đền – chùa – tháp – miếu:
Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá
Sư cụ nằm chung với khói mây.
(Nguyễn Khuyến, Nhớ cảnh chùa Đại)
Một số câu thơ, lời nhạc hay cụm từ khác có thể dùng để đặt xen vào đoạn từ Phương Đông đến tục thờ cây cối... trong văn bản: Nước còn cau mặt với tang thương (Bà Huyện Thanh Quan, Thăng Long thành hoài cổ); Mây che trên đầu và nắng trên vai (Trịnh Công Sơn, Một cõi đi về); Đỡ lấy đài xiêu, nưng lấy nhị,/ Hồn ơi, phong cảnh cũng là ngươi! (Xuân Diệu, Xuân rụng); biển gào, sóng thét, gió reo,..
Trả lời:
Có thể đó là ấn tượng về kiến thức phong phú và khả năng bao quát vấn đề của tác giả. Có thể đó là ấn tượng về lối triển khai thông tin linh hoạt, sinh động trong văn bản,... Tiếp sau, cần tự hỏi: Bản thân em có thể viết được văn bản thông tin về một vấn đề cụ thể nào đó theo cách tương tự hay không? Nếu muốn viết được, em phải công phu rèn luyện những mặt nào (phương pháp nhìn nhận, kiến thức, kĩ năng,...)?
Trả lời:
Ví dụ:
- Câu gốc: Đến thăm quê cũ nhà Trần, ngoài tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc, … ta còn bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A”.
- Câu biến đổi: Ta bắt gặp các địa danh Hoa Nha, Liễu Nha vang bóng một thời “hào khí Đông A” bên cạnh các tháp chùa Phổ Minh, đền Trần, đền Bảo Lộc, … mỗi khi đến thăm quê cũ nhà Trần.
Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Bài 9: Đi và suy ngẫm hay khác: