Soạn bài Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện - ngắn nhất Kết nối tri thức
Soạn bài Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện ngắn nhất mà vẫn đủ ý được biên soạn bám sát sách Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức giúp học sinh soạn văn 12 dễ dàng hơn.
Soạn bài Trình bày kết quả so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện - Kết nối tri thức
* Yêu cầu:
• Nêu tên hai tác phẩm truyện được đưa ra để so sánh, đánh giá và nói rõ lí do chọn hai tác phẩm này.
• Xác định rõ cơ sở so sánh và phạm vi các phương diện cần so sánh ở hai tác phẩm truyện.
• Nêu cách thức đã thực hiện khi so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện.
• Trình bày một số kết quả so sánh, đánh giá nổi bật (có phân tích các dẫn chứng tiêu biểu).
• Khái quát được ý nghĩa của việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện.
1. Chuẩn bị nói
* Lựa chọn đề tài
- Đề tài của bài nói có thể là đề tài của bài viết đã được bạn thực hiện trước đó. Nếu vậy, bạn cần đọc lại bài viết, rút gọn bài viết thành một dàn ý bài nói, có điều chỉnh theo hướng phù hợp với hoạt động nói và nghe.
- Nếu bạn chọn đề tài mới thì việc chuẩn bị phải công phu hơn. Bạn cần thực hiện nghiêm túc quy trình: Chọn đọc hai tác phẩm phù hợp → So sánh → Hình thành luận điểm đánh giá về từng tác phẩm trên cơ sở so sánh → Xây dựng dàn ý bài nói (viết trên giấy hay thể hiện bằng các slide dùng để trình chiếu).
* Tìm ý và sắp xếp ý
- Bám sát các yêu cầu về hoạt động nói và nghe của bài học đã nêu ở trên để tự đặt ra những câu hỏi tìm ý phù hợp.
- Ý nói về cách thức đã thực hiện khi so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện cần bao gồm các thông tin: Bạn đã tập trung chú ý phương diện nào của hai tác phẩm truyện được đưa ra để so sánh? Việc lập phiếu ghi chép các dữ liệu cần thiết được tiến hành ra sao?
- Các ý cơ bản của bài nói có thể được sắp xếp theo hình thức tuyển tính hoặc được tố chức dưới dạng một bảng so sánh hay được thể hiện bằng sơ đồ tổng hợp. Tham khảo bảng so sánh sau:
Phương diện cần phân tích |
Truyện A |
Truyện B |
Nhận xét, đánh giá |
Cốt truyện |
|
|
|
Hệ thống nhân vật |
|
|
|
Ngôi kể, điểm nhìn trần thuật |
|
|
|
Ngôn ngữ, giọng điệu truyện |
|
|
|
... |
|
|
|
Lưu ý: Bảng này dành cho việc tìm ý và lập dàn ý, không phải bằng chứa dựng toàn bộ thông tin về bài nói. Khi tổ chức nội dung bài nói, có thể chỉ so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện ở một vài phương diện mà bạn thấy có vấn đề cần đặc biệt quan tâm.
2. Thực hành nói
- Bài nói tuân thủ dàn ý đã chuẩn bị với kết cấu gồm ba phần: Mở đầu, Triển khai, Kết luận. Trong khi nói, có thể đưa thêm những ý tưởng mới nảy sinh nhưng tránh sa đà.
- Cần giúp người nghe hiểu rõ tính mục đích của việc so sánh hai tác phẩm truyện với nhau, thường xuyên quan tâm trả lời câu hỏi: So sánh để làm gì?
- Nếu điều kiện cho phép, nên sử dụng bảng hay sơ đồ so sánh hoặc trình chiếu các slide, giúp người nghe có được cái nhìn tổng quan về nội dung trình bày.
3. Trao đổi đánh giá
Người nghe |
Người nói |
- Căn cứ vào tên bài nói và mục đích hướng tới của bài nói để nêu nhận xét hay bổ sung các ý cần thiết. - Tùy vào hình thức trình bày đã được người nói lựa chọn (sử dụng hay không sử dụng các bảng, sơ đồ, slide,...) để đưa ra đánh giá, đòi hỏi phù hợp. - Yêu cầu người nói trình bày rõ hơn về một số luận điểm chưa được diễn đạt tường minh. - Đính chính những nhầm lẫn (nếu có) của người nói trong việc nêu bằng chứng hay đưa ra kết luận. - Gợi mở những nội dung, phương diện khác cần được so sánh ở hai tác phẩm truyện. |
- Tự đánh giá về bài nói của mình trên tinh thần học hỏi. - Thuyết minh thêm về những điểm người nghe muốn hiểu rõ hơn. - Trao đổi lại những ý kiến của người nghe mà mình chưa tán đồng. - Nêu vắn tắt một số khám phá có ý nghĩa khác chưa có dịp trình bày trong bài nói về hai tác phẩm được so sánh. |
Bài nói tham khảo
Chào các bạn, sau đây tôi xin giới thiệu với các bạn về kết thúc truyện Chí Phèo (Nam Cao) và Vợ nhặt (Kim Lân)
Trước khi Cách mạng thực hiện, văn học Việt Nam là một phần của văn hóa phong kiến, phản ánh thực trạng xã hội đầy bi kịch và bất công. Và trong mảng đề tài viết về người nông dân thì sẽ là thiếu sót lớn nếu không nhắc đến hai nhà văn tiêu biểu là Kim Lân và Nam Cao với một Vợ nhặt và Chí Phèo, vừa hiện thực đau đớn, xót xa cho những kiếp người cùng khổ, vừa mang đậm tính nhân văn sâu sắc, ở đó ta thấy tình người dẫu bị cái đói, cái nghèo vùi dập nhưng nó vẫn chưa từng và chưa bao giờ đánh mất cái bản ngã khiến con người ta thức tỉnh và có hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy cùng viết về người nông dân, thế nhưng mỗi nhà văn có một phong cách, đặc trưng riêng, nếu như Nam Cao dường như tập trung viết về cái hiện thực khốc liệt và những chi tiết về tình người cao cả chính là cái để đẩy bi kịch của nhân vật lên cao nhất, để lột tả sự tàn ác của chế độ cũ với con người. Thì ngòi bút Kim Lân lại chan chứa tình cảm và thấm đẫm giá trị nhân văn, hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn cho các nhân vật. Sự khác biệt ấy được thể hiện rõ nét qua đoạn kết của hai tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao và Vợ nhặt – Kim Lân.
Trong truyện ngắn Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã khéo léo viết lên bi kịch cuộc đời của nhân vật, Chí từ khi sinh ra đã bất hạnh vì bị bỏ rơi tại cái lò gạch cũ. Nhưng lớn lên, hắn là một người lương thiện, dù nghèo, nhưng kiếm sống chính bằng sức lao động của mình. Chí Phèo đi làm người ở nhà Bá Kiến, nhưng cuộc đời anh gần như khép lại bởi cái tính gian dâm của bà Ba và cái thói ghen tuông đỏ mắt của Bá Kiến, đã khiến anh bị đẩy vào ngục tù tăm tối. Cái nhà tù khốn nạn của chế độ thực dân phong kiến, bước vào làm người lương thiện nhưng bước ra thì thành kẻ lưu manh. Cuộc đời Chí Phèo trượt dài trên con đường tội lỗi, làm tay sai cho chính kẻ đã hủy hoại đời mình, bán rẻ nhân cách lấy mấy xu bạc sống qua ngày, cùng với những cơn say bất tận và những tiếng chửi không ai buồn đáp. Hắn đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, tiếng chửi của hắn được xếp ngang với tiếng sủa của mấy con chó dữ canh cổng cho nhà Bá Kiến, đớn đau và xót xa đến tận cùng. Thế rồi đến khi đã bước qua đến bên kia con dốc của cuộc đời, thì Thị Nở đến, như một món quà của tạo hóa và nhưng cũng mở ra một bi kịch khác của trong cuộc đời hắn, đó là bi kịch bị từ chối quyền làm người. Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ, câu nói cay nghiệt của bà cô đã làm Chí sực tỉnh khỏi cái giấc mơ tốt đẹp. Lời nói của nhân vật, hay chính là lời miệt thị của xã hội ngoài kia, họ đã hoàn toàn chặn đứng ước mơ làm lại cuộc đời của Chí Phèo, ước mơ được làm người lương thiện của hắn. Cuối cùng nhân tính trong con người của anh trai trẻ đã thức dậy sau hơn 20 năm bị chính hiện thực cuộc sống tàn ác vùi dập, Chí Phèo dường như đã hết bị đẩy đến con đường tận cùng không lối thoát, hắn muốn lương thiện, nhưng không ai cho hắn được lương thiện. Kết truyện bằng chi tiết Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự tử, để kết thúc chuỗi ngày tăm tối, sa đọa của mình, đánh dấu sự thức tỉnh nhân tính trong con người Chí, đồng thời bộc lộ khát khao được làm người lương thiện cùng cực, đến đau đớn đến mức phải lấy cái chết để chứng minh. Hơn thế, cái chết của Chí được xem là một chi tiết nhân văn, thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ của tầng lớp nhân dân với chế độ phong kiến tàn ác. Dẫu rằng việc dùng bạo lực là tiêu cực, nhưng trong hoàn cảnh ấy, thực sự người nông dân chỉ còn cách vùng lên đấu tranh. Không chỉ vậy, giá trị nhân văn của tác phẩm còn nằm ở chỗ tố cáo chế độ phong kiến thực dân thối nát và tàn bạo, khiến nhiều kiếp người khốn khổ phải lao đao, phải rơi vào bi kịch và tiêu biểu đó chính là nhân vật Chí Phèo. Cuối truyện Nam Cao để lửng một câu: Ðột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…, Thị Nở nhìn bụng mình rồi nghĩ đến gã tình nhân vừa mới chết hôm qua, lòng thị không biết nghĩ gì, thị thương xót Chí, xót phận mình, rồi chắc cũng nghĩ đến cái tương lai nếu có một Chí Phèo con ra đời. Cái lò gạch cũ là nơi Chí Phèo bị , bỏ rơi, Thị Nở nghĩ về nó là nghĩ về tương lai một đứa trẻ nữa có thể cũng bị bỏ lại nơi ấy. Thế hóa ra rằng đi hết một vòng, cứ ngỡ Nam Cao cho chúng ta một cái kết mở nhưng đó lại là cái vòng lặp luẩn quẩn không lối thoát truyền kiếp của Chí Phèo ư? Có lẽ rằng Chí Phèo chết đi nhưng cái bi kịch của Chí Phèo vẫn còn đó, vẫn còn đeo bám những con người đang sống và sẽ sống trong tương lai.
Với Vợ nhặt, người đọc dường như cảm nhận nhận rõ được rằng giọng văn của Kim Lân nhẹ nhàng và hóm hỉnh, khác hẳn với giọng văn ngưng trọng và lạnh lẽo của Nam Cao. Tràng một anh trai thiết nghĩ rằng đỡ bất hạnh hơn Chí Phèo bởi Tràng có mẹ nuôi nấng, không phải chịu kiếp mồ côi, tuy vậy Tràng là thanh niên nghèo, xấu xí, ế vợ chính là bi kịch của Tràng. Thế nhưng dưới ngòi bút của Kim Lân, nhân vật dẫu rằng có thảm hại, chịu nhiều khổ sở nhưng họ vẫn luôn tìm được cho mình một ánh sáng. Mà ánh sáng của Tràng có lẽ bắt nguồn từ người vợ nhặt, có vợ Tràng thấy mình sống có trách nhiệm hơn, khao khát về một gia đình đầm ấm sâu sắc. Cũng từ câu chuyện mà vợ kể về hình ảnh đoàn người đói khát đi phát kho thóc, mà Tràng nhận ra được hướng đi mới để dẫn cả gia đình ra khỏi cơn nguy khốn khi cái đói cứ rình rập. Chi tiết cuối Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”, là một chi tiết đắt giá, nó trước hết là gợi ra cái cảnh nạn đói thê thảm năm, sau là gợi ra sự hiện diện của cách mạng đã về gần hơn với cuộc sống của những người nông dân cùng khổ. Ở Tràng dần có nhận thức, giác ngộ về cách mạng, bởi lẽ chỉ có cách mạng về thì người nông dân mới thoát khỏi cái cảnh khốn đốn, cầm cự trước nạn đói do lũ phát xít tàn ác gây ra.
Cũng như Chí Phèo, cái kết của Vợ nhặt là một cái kết mở mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Tác giả nhìn nhận hiện thực ở một khía cạnh khác có phần nhẹ nhàng hơn, đó là lòng trân trọng những khát khao sống mãnh liệt, khát khao thay đổi cuộc đời đang kề cận bên bờ vực thẳm, là niềm tin bất diệt vào một tương lai tươi sáng. Thay vì luẩn quẩn bế tắc trong cái bi kịch đói kém, thì chính họ - những người nông dân nghẹo phải tự giải thoát cho mình, bản thân Tràng nghĩ đến việc phá kho thóc, nghĩ đến việc làm cách mạng, hướng về lá cờ đỏ sao vàng. Dù là cách nào cũng được, nhưng chúng đều là những con đường sáng đưa cả gia đình Tràng thoát ra khỏi sự tăm tối, khổ cực, thoát khỏi cái vị đắng nghét của nồi cháo cám. Đó là sự vận động tất yếu của xã hội loài người theo xu hướng tích cực, tác giả không nói rõ Tràng sẽ làm gì tiếp theo, thế nhưng một cái kết mở có hậu, đủ để người ta liên tưởng về một tương lai tốt đẹp cho gia đình Tràng khi cách mạng về.
Như vậy nhìn chung điểm giống nhau của hai tác phẩm chính là tính hiện thực sâu sắc đã phản ánh một cách rất rõ nét về cuộc đời và số phận đầy những bất hạnh của người nông dân trong xã hội cũ, mà tất cả những bi kịch khốn khổ ấy đều đến từ sự xâm lược của bọn thực dân phát xít, cùng với sự tàn ác đốn mạt của chế độ phong kiến vốn đã mục rỗng, thối nát. Tuy nhiên, nếu như Nam Cao viết về một Chí Phèo với những bi kịch nối tiếp bi kịch và sự bế tắc không lối thoát cho nhân vật, để rồi đặt một cái kết thúc tưởng là mở nhưng lại là mở ra một cái vòng luẩn quẩn không lối thoát, thể hiện rõ rằng Chí Phèo dẫu có chết thì cái bi kịch ấy vẫn còn đó, nó chỉ chuyển sang đối tượng khác mà thôi, thì đến tác phẩm Vợ nhặt, Nam Cao đã để lại trong lòng độc giả nhiều trăn trở về cuộc sống tăm tối, bế tắc của người nông dân trong chế độ cũ. Còn với Vợ nhặt của Kim Lân, sự khác biệt vốn đã bắt đầu từ giọng văn ấm áp, nhẹ nhàng, nhân vật bước những bước đi rất khó khăn để vượt qua số phận khốn khổ và chí ít trong tầm mắt họ có thể nhìn thấy được một tương lai tốt đẹp hơn ở lá cờ đỏ sao vàng. Chí ít rằng xã hội mà Tràng đang sống họ có đủ hơi ấm tình người và nhân vật Tràng không hề cô đơn, anh luôn được sống trong yêu thương, nhân vật dẫu có đói khổ, nhưng vẫn rất giàu có về mặt tinh thần. Chính vì thế nên kết thúc của câu chuyện cũng là một cái kết mở rất khoáng đạt, mở ra trong lòng người đọc nhiều hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp cho nhân vật. Có thể nói, so với Nam Cao thì Kim Lân tập trung nhiều vào giá trị nhân văn, tác giả miêu tả hiện thực để nhấn mạnh cái giá trị nhân văn mà mình muốn truyền tải, chứ không dồn nhân vật vào đường cùng.
Sở dĩ có sự khác nhau giữa cách xử lý truyện như vậy, trước hết là phụ thuộc vào phong cách viết của tác giả. Nhưng yếu tố cốt lõi trong giá trị nhân văn của tác phẩm còn phụ thuộc khá lớn vào hoàn cảnh ra đời của tác phẩm và góc nhìn của hai tác giả là hoàn toàn khác nhau. Với Nam Cao, ông viết Chí Phèo vào năm 1941, là những năm tháng khốn khổ cùng cực nhất của nhân dân ta, có lẽ, cách mạng đối với người nông dân Việt Nam là còn quá mơ hồ. Thế nên, khi viết Chí Phèo, rõ ràng Nam Cao chỉ nhìn rõ được hiện thực tàn khốc và bi kịch của người nông dân, nhưng không thể tìm ra được cách giải quyết và lối thoát cho họ, bởi chính bản thân ôngđang mắc kẹt giữa cuộc đời lắm bất công như nhân vật Hộ của Đời thừa. Ngược lại, Kim Lân viết Vợ nhặt lần đầu tiên sau khi cách mạng tháng Tám vừa thành công, thế nên, tác giả đặt niềm tin vào cách mạng. Chính vì thế cả nội dung và giọng văn của tác giả đều vô cùng tươi sáng và tích cực, hướng người nông dân đến một lối thoát, một cách giải quyết vô cùng hợp lý và tràn đầy hy vọng về một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Trên đây là bài trình bày của tôi về việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm truyện. Cảm ơn thầy/cô và các bạn đã lắng nghe. Rất mong nhận được sự góp ý từ phía thầy/cô và các bạn.