Giải SBT Sinh học lớp 8 Chương 10: Nội tiết
Giải SBT Sinh học lớp 8 Chương 10: Nội tiết
Với Giải sách bài tập Sinh học lớp 8 Chương 10: Nội tiết hay nhất, chi tiết sẽ giúp Giáo viên, phụ huynh có thêm tài liệu để giúp các em học sinh trả lời các câu hỏi cũng như hiểu rõ bài học và học tốt môn Sinh học lớp 8 hơn.
- Bài tập có lời giải trang 121, 122, 123, 124 SBT Sinh học 8
- Bài tập tự luận trang 125, 126 SBT Sinh học 8
- Bài tập trắc nghiệm trang 126, 127, 128, 129, 130, 131, 132 SBT Sinh học 8
Bài tập có lời giải trang 121, 122, 123, 124 SBT Sinh học 8
Bài 1 trang 121 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Cơ thể người có những tuyến nội tiết nào ?
Lời giải:
Cơ thể người có những tuyến nội tiết nằm ở các vị trí khác nhau trong cơ thể nhưng đều tiết các hoocmôn giữ những chức năng khác nhau tuỳ từng tuyến.
Có thể kể các tuyến nội tiết sau :
- Tuyển yên (hay còn gọi là tuyến mấu não dưới) nằm ở mặt dưới não, trên hốc yên của xương bướm.
- Tuyến mấu não trên (hay tuyến tùng) nằm ở phía trên của các củ não sinh tư thuộc não giữa.
- Tuyến giáp nằm trước sụn giáp ; nằm phía sau, áp sát vào tuyến giáp có tuyến cận giáp hay phó giáp gồm 4 tuyến nhỏ.
- Tuyến hung hay tuyến ức nằm sau xương ức, giữa hai lá phổi, trước tim. Tuyến này phát triển ở trẻ em, teo dần ở người trưởng thành.
- Các đảo tuỵ (phần nội tiết) của tuyến tuỵ.
- Tuyến trên thận nằm trên 2 thận, gồm vỏ tuyến và tuỷ tuyến.
- Tuyến sinh dục nam (tinh hoàn), nữ (buồng trứng) vừa sản sinh các tế bào sinh dục vừa tiết các hoocmôn sinh dục nam hoặc hoocmôn sinh dục nữ.
Ngoài các tuyến nội tiết chính thức kể trên còn có những nhóm tế bào nằm trên một số cơ quan cũng tiết hoocmôn chẳng hạn ở tim, dạ dày, ruột, gan, thận...
Bài 2 trang 121 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Vai trò của các tuyến nội tiết là gì ?
Lời giải:
Các tuyến nội tiết tham gia vào điều hoà các quá trình sinh lí của cơ thể có liên quan đến trao đổi chất và chuyển hoá vật chất năng lượng trong các tế bào của cơ thể, đồng thời góp phần vào duy trì tính ổn định của môi trường trong, đảm bảo sự tồn tại và duy trì các hoạt động sinh lí diễn ra bình thường trong cơ thể.
Sự rối loạn trong hoạt động của các tuyến nội tiết thường dẫn đến tình trạng bệnh lí.
Chẳng hạn các tế bào a và p trong đảo tuỵ của tuyến tuỵ tham gia vào sự điều hoà lượng đường trong máu hoặc đáp ứng nhu cầu glucôzơ cho các cơ quan đang hoạt độngế
Tuyến giáp tiết ít hoocmôn tirôxin do khẩu phần ăn thiếu iốt sẽ dẫn tới bệnh bướu cổ, trao đổi chất và chuyển hoá trong các tế bào bị suy giảm, trẻ thì chậm lớn và trí não kém phát triển, ở người lớn hoạt động thần kinh giảm sút, trí nhớ kém. Nếu tuyến này tiết quá mức sẽ làm tăng cường trao đổi chất, nhịp tim tăng, thần kinh luôn căng thẳng, mất ngủ, sút cân nhanh...
Đó là những triệu chứng của bệnh bướu cổ lồi mắt (bệnh Bazơđô).
Bài 3 trang 122 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Trình bày vai trò của tuyến yên trong hệ nội tiết.
Lời giải:
Tuyến yên là một tuyến nằm ở nền sọ trong hốc yên bướm (thuộc xương bướm) mặt dưới đại não, gắn với đại não qua phễu não và liên hệ với vùng dưới đồi. Tuyến yên tuy không lớn (chỉ bằng hạt đậu trắng, nặng chừng lg) nhưng là một tuyến rất quan trọng, giữ vai trò chỉ đạo hoạt động của hầu hết các tuyến nội tiết khác, mặc dù vậy bản thân tuyến yên cũng vẫn chịu sự chỉ đạo của hệ thần kinh thông qua các nơron nằm ở vùng dưới đồi (thuộc não trung gian).
Tuyến yên gồm 2 thuỳ : thuỳ trước còn gọi là thuỳ tuyến và thuỳ sau hay thuỳ thần kinh, ngăn cách bằng thuỳ giữa rất mảnh. Các nơron ở phía trước vùng dưới đồi tiết ra các yếu tố kích thích hoặc kìm hãm các tế bào tuyến của thuỳ trước, tiết ra các hoocmôn sau :
Hoocmôn tăng trưởng (GH)
Hoocmôn kích thích tuyến giáp (TSH)
Hoocmôn kích thích vỏ tuyến trên thận (ACTH)
Hoocmôn kích thích tuyến sinh dục (FSH, LH)
Hoocmôn kích thích tuyến sữa (PRL)
Các nơron ở phía sau vùng dưới đồi có sợi trục chạy thẳng xuống thuỳ sau và trực tiếp tiết ra hoocmôn chống đa niệu ADH (còn gọi hoocmôn chống đái tháo nhạt hay chống lợi tiểu) và hoocmôn ôxitôxin.
Riêng tuyến tuỵ và tuỷ tuyến trên thận hoạt động không chịu ảnh hưởng của tuyến yên.
Bài tập tự luận trang 125, 126 SBT Sinh học 8
Bài 1 trang 125 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Trình bày vai trò của tuyến trên thận.
Lời giải:
Tuyến trên thận gồm hai phần là vỏ tuyến và tuỷ tuyến.
- Vỏ tuyến trên thận chia làm 3 lớp :
+ Lớp ngoài cùng tiết các hoocmôn điều hoà chất khoáng (Na+, K+...), trong đó quan trọng nhất là hoocmôn anđostêron có tác dụng làm tăng tái hấp thu Na+ ở ống thận, góp phần điều hoà áp suất thẩm thấu, làm tăng huyết áp.
+ Lớp giữa tiết các hoocmôn điều hoà đường huyết, trong đó quan trọng nhất là cortizon. Cortizon tham gia vào điều hoà đường huyết cùng với các hoocmôn của đảo tuỵ (glucagôn, insulin). Khi lượng glicôgen dự trữ đã sử dụng hết hoặc khi cần huy động glucôzơ tức thời thì cortizon sẽ tham gia vào quá trình chuyên hoá các thành phần không phải gluxit như prôtêin, lipit thành glucôzơ để kịp đáp ứng nhu cầu của cơ thể.
+ Lớp trong cùng tiết các hoocmôn nam tính hoá (anđrôgen). Trong quá trình phát triển phôi, sự phân hoá giới tính chí bắt đầu từ tuần thứ tám dưới tác dụng của anđrôgen. Nếu anđrôgen tiết nhiều ở nữ sẽ gây những biến đổi ngoại hình như nam mặc dù có nhiễm sắc thê giới tính là XX.
- Tuỷ tuyến trên thận gồm các tế bào là biến dạng của nơron sau hạch thuộc bộ phận thần kinh giao cảm (chỉ còn thân mà sợi trục đã tiêu giảm), chúng chịu sự điều khiển của trung ương giao cảm ở sừng bên chất xám của tưỷ sống. Tuỷ tuyến trên thận tiết ra hoocmôn ađrênalin và norađrênalin, có tác dụng đồng hướng với bộ phận thần kinh giao cảm, đồng thời cùng với cortizon tham gia vào chuyển hoá lipit và prôtêin thành glucôzơ khi nhu cầu glucôzơ tăng cao.
Bài 2 trang 125 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Sự điều hoà đường huyết luôn giữ được ổn định diễn ra như thế nào ?
Lời giải:
- Bình thường lượng đường huyết giữ được ổn định là do tác dụng đối lập của hoocmôn do hai loại tế bào α, β của đảo tuỵ tiết ra :
+ Hoocmôn insulin do tế bào α tiết thường là sau bữa ăn, có tác dụng biến glucôzơ thành dạng dự trữ là glicôgen ở trong các tế bào gan và tế bào cơ.
+ Tế bào α tiết glucagôn khi nồng độ glucôzơ trong máu hạ thấp, bằng cách chuyển hoá glicôgen dự trữ trong các tế bào gan và tế bào cơ thành glucôzơ đưa vào máu giữ cho nồng độ glucôzơ trong máu luôn được ổn định và cung cấp cho nhu cầu hoạt động của các cơ quan. Có thể hình dung qua trình điều hoà đường huyết qua sơ đồ :
- Khi lượng glicôgen dự trữ bị cạn kiệt, các hoocmôn cortizon từ vỏ tuyến trên thận tiết ra cùng ađrênalin do tuỷ tuyến trên thận tiết ra sẽ chuyển hoá lipit và prôtêin cơ thể thành glucôzơ đảm bảo cho nồng độ glucôzơ trong máu được ổn định, duy trì mọi hoạt động sống của các tế bào cơ thể.
Bài 3 trang 125 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Nguyên nhân gây nên bệnh tiểu đường là gì ?
Lời giải:
Bệnh tiểu đường là một căn bệnh tương đối phổ biến hiện nay do rối loạn chuyển hoá các chất đường bột, mỡ và chất đạm (gluxit, lipit và prôtêin) gây ra bởi sự giảm tiết insulin của các tế bào ở đảo tuỵ hoặc insulin vẫn tiết ra bình thường nhưng các tế bào đích thiếu các thụ thể tiếp nhận insulin dẫn tới tỉ lệ đường trong máu tăng cao vượt quá khả năng hấp thu trở lại (tức là quá ngưỡng của thận nên trong nước tiểu có đường). Dựa vào nguyên nhân gây bệnh, y học đã phân biệt thành hai loại tiểu đường là "tiểu đường típ I" và "tiểu đường típ II".
- Tiểu đường típ I chiếm 10% số người bị tiểu đường do tế bào \(\beta )\ tiết không đủ lượng insulin cần thiết nên glucôzơ trong máu tăng cao sau bữa ăn vì không chuyển hoá thành glicôgen dự trữ trong gan và cơ được, tí lệ glucôzơ tăng vượt quá ngưỡng nên thận lại thải ra ngoài theo nước tiểu. Tiểu đường típ I thường xảy ra ở trẻ trong độ tuổi 12-13 nhưng cũng có thể xảy ra ở cả người lớn tuổi. Mắc bệnh tiểu đường típ này phải điều trị bằng tiêm insulin đều đặn hằng ngày kết hợp với chế độ ăn hạn chế chất đường bột.
- Tiểu đường típ II thường xuất hiện ở người lớn sau tuổi 40, và chiếm tới 90% số người bị bệnh tiểu đường. Ở người bệnh, tuỵ có thể vần tiết ra insulin bình thường nhưng các tế bào đích thiếu thụ thể tiếp nhận insulin nên lượng đường trong máu tăng cao vượt quá ngưỡng thận, do đó glucôzơ bị loại ra ngoài qua nước tiểu. Người mắc bệnh tiểu đường thường ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều và gầy nhanh (sút cân nhanh), được gọi là hội chứng "bốn nhiều".
Bệnh còn thường gặp ở những người béo phì, ít chịu luyện tập.