X

Giải sách bài tập Sinh học lớp 8

Giải SBT Sinh học lớp 8 Chương 11: Sinh sản


Giải SBT Sinh học lớp 8 Chương 11: Sinh sản

Với Giải sách bài tập Sinh học lớp 8 Chương 11: Sinh sản hay nhất, chi tiết sẽ giúp Giáo viên, phụ huynh có thêm tài liệu để giúp các em học sinh trả lời các câu hỏi cũng như hiểu rõ bài học và học tốt môn Sinh học lớp 8 hơn.

Giải SBT Sinh học lớp 8 Chương 11: Sinh sản

Bài tập có lời giải trang 140, 141, 142, 143 SBT Sinh học 8

Bài 1 trang 140 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Trình bày đặc điểm cấu tạo của tinh trùng liên quan đến quá trình thụ tinh.

Lời giải:

Tinh trùng được sản sinh trong ống sinh tinh (cuộn khúc trong tinh hoàn) bắt đầu từ tuổi dậy thì chính thức ở nam, trong điều kiện nhiệt độ thấp hơn thân nhiệt chừng 2 - 3°c.

Tinh trùng gồm 2 phần : một đầu hình chóp và một chiếc đuôi dài. Đầu dài 4-5 µm và rộng 3 µm ở chỗ rộng nhất, trong đó chứa 1 nhân, một thể đính và thể gốc lông roi.

Nhân chứa bộ nhiễm sắc thể đơn bội, là vật chất di truyền của bố, trong đó mang một nhiễm sắc thể giới tính hoặc X hoặc Y ; thế đỉnh chứa acrozin - một enzim có tác dụng phá thủng màng trứng để đưa vật chất di truyền trong nhân vào hoà nhập với nhân của trứng khi thụ tinh ; thể gốc của roi đuôi nằm sát phần cuối của nhân.

Đuôi chia làm 3 đoạn : đoạn tiếp với đầu được coi là thân, là phần rộng nhất, dài khoảng 5 - 9 µm, trong chứa ti thể - nơi cung cấp năng lượng cho hoạt động của đuôi, giúp tinh trùng vận chuyển để đến gặp trứng thụ tinh. Phần đuôi chính thức dài khoảng 40 - 45 µm là cơ quan vận chuyển chủ yếu của tinh trùng, trong chứa một sợi trục dọc theo chiều dài đuôi.

Bài 2 trang 140 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Trình bày quá trình phát triển cùa trứng trong buồng trứng cho đến khi chín và rụng. Nêu rõ đặc điểm cấu tạo của tế bào trứng.

Lời giải:

Trứng được hình thành qua giảm phân. Trứng trưởng thành chín và rụng chỉ mang bộ nhiễm sắc thể đơn bội, trong đó có một nhiễm sắc thể giới tính X.

Quá trình phát triển trứng bắt đầu từ các tế bào gốc (noãn nguyên bào) trong buồng trứng đến trứng trưởng thành và rụng trải qua hai giai đoạn : trước và sau khi sinh.

Buồng trứng được hình thành từ tuần thứ bảy ở thai bé gái trong đó chứa các tế bào mầm. Các tế bào này phân chia rất nhanh trong vòng 5 tháng đầu của thai nhi để cho khoảng 6-7 triệu tế bào mới, về sau sẽ chuyển thành noãn bào bậc I, nhưng đa số các tế bào đó bị tiêu biến nên khi sắp sinh, chỉ còn khoảng 2 triệu noãn bào bậc I.

Sau khi bé gái sinh ra, các noãn bào bậc I tiếp tục thoái hoá, đến tuổi dậy thì chỉ còn khoảng 400 000.

Bước vào tuổi dậy thì, buồng trứng bắt đầu hoạt động trở lại dưới tác dụng của FSH do tuyến yên tiết ra. Các noãn bào bậc I lần lượt phân chia giảm phân để thành noãn bào bậc II nằm trong nang trứng. Nang mỗi ngày một lớn, các tế bào noãn (bao nang) càng ngày càng tiết nhiều ơstrôgen (gọi là hoocmôn buồng trứng).

Ơstrôgen sẽ kích thích tuyến yên gây tiết LH là hoocmôn gây rụng trứng và kích thích nơi trứng rụng phát triển thành thể vàng. Thể vàng sẽ tiết hoocmôn prôgestêrôn vừa có tác dụng duy trì sự tồn tại của thể vàng, gây những biến đổi trong niêm mạc tử cung để đón trứng (nếu được thụ tinh) xuống làm tổ, vừa có tác dụng kìm hãm tuyến yên không tiết FSH và LH nữa.

Trứng đã rụng sẽ chuyển qua phễu ống dẫn trứng vào ống dẫn trứng để gặp tinh trùng và thụ tinh. Nếu trứng rụng mà được thụ tinh thì noãn bào bậc II mới hoàn thành quá trình giảm phân và kết hợp với nhân tinh trùng thành hợp tử để chuẩn bị cho một thế hệ mới ra đời.

Bài 3 trang 141 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Vì sao số lượng tinh trùng mỗi lần phóng tinh rất lớn nhưng lại chỉ có một tinh trùng được thụ tinh cho trứng ? Giải thích mâu thuẫn đó như thế nào ?

Lời giải:

Mỗi lần phóng tinh, số lượng tinh trùng được phóng ra là khoảng nửa tỉ tinh trùng trong 4 - 5 ml tinh dịch với mật độ chừng 50 - 120triệu/ml. Tinh trùng được phóng vào âm đạo phải vượt qua cổ tử cung vào tử cung, tới vòi trứng, gặp trứng để thực hiện quá trình thụ tinh. Trong cuộc hành trình đó chỉ những tinh trùng khoẻ mới tới được nơi thụ tinh với trứng, số này chỉ còn vài ngàn, nhưng cũng chỉ vài trăm tinh trùng đến tiếp xúc được với trứng mà thôi, số còn lại hoặc vì yếu hoặc vì bị bạch cầu thực bào.

Khi tinh trùng gặp trứng, chúng bao quanh trứng và từ thể đỉnh ở đầu tinh trùng tiết ra các enzim cần thiết cho sự xâm nhập của tinh trùng vào trứng để thụ tinh.

Trước hết enzim hialuronidaza phá huỷ lớp vỏ bao quanh trứng. Tiếp đó tinh trùng tiếp xúc với màng trong suốt, enzim acrozin chọc thủng màng này để đưa vật chất di truyền trong nhân tinh trùng vào hoà nhập với vật chất di truyền của trứng tạo thành hợp tử. Như vậy, trứng đã được thụ tinh. Quá trình này xảy ra ở 1/3 phía ngoài của ống dẫn trứng.

Ngay sau khi một tinh trùng khoẻ nhất đột nhập được qua màng trứng để thụ tinh thì đã xảy ra hiện tượng phong bế của trứng không cho một tinh trùng nào khác có thể xâm nhập được vào trứng nữa. Như vậy, trứng chỉ được thụ tinh với 1 tinh trùng có cơ may đột nhập được vào trứng qua màng trứng trước tiên. Các tinh trùng khác chỉ hỗ trợ bằng tiết enzim hialuronidaza giúp phá huỷ lớp vỏ bao quanh trứng do các tế bào hạt được gắn kết bởi axit hialuronic mà thôi.

Bài tập tự luận trang 143, 144 SBT Sinh học 8

Bài 1 trang 143 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Giải thích vì sao coi hành kinh lần đầu là dấu hiệu quan trọng nhất, đánh dấu tuổi dậy thì chính thức ở người con gái.

Lời giải:

Tuổi dậy thì là một giai đoạn chuyển tiếp về mặt sinh lí để từ một bé gái trở thành một thiếu nữ và bắt đầu có khả năng sinh con.

Tuổi dậy thì đến sớm hay muộn trong đời người con gái là tuỳ dân tộc, tuỳ vùng địa lí, tuỳ trình độ văn hoá, tuỳ điều kiện sống. Thường trẻ em người da màu, người sống ở thành thị tiếp cận dễ dàng với sách báo, phim ảnh, mức sống cao sẽ dậy thì sớm hơn người da trắng, người ở xứ lạnh, người ở nông thôn, mức sống thấp. Tuổi dậy thì do đó cũng dao động khá lớn, khoảng 8-12 tuổi.

Trẻ em gái Việt Nam tuổi dậy thì trung bình là 11 - 12 tuổi.

Tuổi dậy thì là lứa tuổi bắt đầu có những biến đổi về thể chất và sinh lí do sự thúc đẩy của các hoocmôn do vùng dưới đồi và tuyến yên tiết ra, trong đó có FSH và LH là những hoocmôn kích thích buồng trứng hoạt động.

Buồng trứng hoạt động sẽ tiết ơstrôgen, đồng thời vỏ tuyến trên thận cũng tiết ra anđrôgen.

Hai hoocmôn này thúc đẩy những biến đổi thể chất ở người con gái : đầu tiên là phát triển tuyến vú, tiếp theo sau là mọc lông mu và lông nách, các tuyến bã phát triển làm mọc "mụn trứng cá" và cuối cùng đánh dấu bằng "hành kinh lần đầu", chứng tỏ là tử cung đã hoạt động tích cực dưới tác dụng của hoocmôn buồng trứng. Tất cả những biến đổi trên là dấu hiệu cho biết người con gái đã có khả năng sinh con - một dấu hiệu quan trọng đấnh dấu tuổi dậy thì chính thức ở người con gái. Vì trứng đã bắt đầu rụng, thường là sau một năm kể từ hành kinh lần đầu.

Bài 2 trang 143 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Thụ tinh, thụ thai và phát triển của thai ở người như thế nào ?

Lời giải:

- Thụ tinh : Trứng gặp tinh trùng sẽ xảy ra sự thụ tinh để tạo thành hợp tử. Sự thụ tinh thường xảy ra trong ống dẫn trứng (ở 1/3 phía ngoài)

- Thụ thai : Sau khi thụ tinh hợp tử di chuyển xuống tử cung làm tổ (thời gian di chuyển khoảng 7 ngày), vừa di chuyển vừa phân chia. Khi tới từ cung, khối tế bào đã phân chia sẽ bám vào lớp niêm mạc tử cung đã được chuẩn bị sẵn (dày, xốp và xung huyết) để làm tổ và sẽ phát triển thành thai. Đó là sự thụ thai.

- Sự phát triển của thai : Phôi sau khi mới làm tổ trong thành tử cung chỉ là một khối tế bào chưa phân hoá, dần dần được phân hoá và phát triển thành thai. Tại nơi trứng làm tổ sẽ hình thành nhau thai bám chắc vào thành từ cung. Thai liên hệ với nhau nhờ cuống nhau và thực hiện trao đổi chất với cơ thể mẹ qua nhau thai để lớn lên.

Bài 3 trang 144 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Trình bày những cơ sở khoa học của các biện pháp tránh thai trong thực hiện kế hoạch hoá gia đình.

Lời giải:

Hiểu được các điều kiện để có thai là trứng phải chín, rụng và được thụ tinh : trứng đã thụ tinh phải làm tổ được trong lớp nội mạc tử cung (thụ thai) để phát triển thành thai bình thường cho đến khi sinh. Do đó, khi không muốn có thai hay chưa muốn có thai khi chưa đủ điều kiện thì cần :

1. Ngăn không cho trứng chín và rụng bằng sử dụng viên thuốc tránh thai trong đó có prôgestêrôn và ơstrôgen là những thành phần có tác dụng kìm hãm tuyến yên tiết FSH và LH nên trứng không phát triển đến độ chín và rụng.

2. Ngăn không cho trứng gặp tinh trùng để thụ tinh, có thể sử dụng :

a) Bao cao su hoặc mũ tử cung để ngăn tinh trùng đến gặp trứng thụ tinh (đây cũng là biện pháp đảm bảo an toàn, tránh lây nhiễm các bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục) hoặc xuất tinh ngoài âm đạo.

b) Có thể vợ chồng gặp nhau tránh ngày rụng trứng bằng theo dõi chu kì rụng trứng qua chu kì kinh nguyệt (biện pháp này không thật an toàn vì có thể tính sai hoặc do những rối loạn về nội tiết gây rụng trứng bất thường).

c) Nếu vợ chồng đã có số con mong muốn mà không muốn sinh con tiếp có thể đình sản bằng thắt ống dẫn tinh (ở nam) hoặc thắt ống dẫn trứng (ở nữ).

3. Ngăn không cho trứng làm tổ trong lớp nội mạc tử cung thì có thể sử dụng các dụng cụ tránh thai (trước đây quen gọi là đặt vòng tránh thai vì các dụng cụ có dạng vòng tròn nhưng sau này nhiều loại có hình T, hình cung, hoặc hình uốn lượn...).

4. Khi đã trót có thai mà không muốn có con thì có thể giải quyết bằng cách hút điều hoà kinh nguyệt hoặc bằng nạo thai sớm khi thai còn nhỏ ở các cơ sở y tế đáng tin cậy để tránh làm tổn thương đến cơ quan sinh sản (như thủng tử cung hoặc dính tử cung...).

Xem thêm các bài giải sách bài tập Sinh học lớp 8 hay khác: