X

Giải sách bài tập Sinh học lớp 8

Giải SBT Sinh học lớp 8 Chương 6: Trao đổi chất và năng lượng


Giải SBT Sinh học lớp 8 Chương 6: Trao đổi chất và năng lượng

Với Giải sách bài tập Sinh học lớp 8 Chương 6: Trao đổi chất và năng lượng hay nhất, chi tiết sẽ giúp Giáo viên, phụ huynh có thêm tài liệu để giúp các em học sinh trả lời các câu hỏi cũng như hiểu rõ bài học và học tốt môn Sinh học lớp 8 hơn.

Giải SBT Sinh học lớp 8 Chương 6: Trao đổi chất và năng lượng

Bài tập có lời giải trang 59, 60 SBT Sinh học 8

Bài 1 trang 59 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Vì sao nói trao đổi chất là đặc trưng cơ bản của cơ thể sống ?

Lời giải:

Cơ thể sống là một hệ mở thường xuyên trao đổi vật chất với môi trường xung quanh để tồn tại và phát triển. Khác với các cơ thể sống, vật vô cơ như một khúc gỗ khô, một cục đá, một thanh sắt càng tiếp xúc với môi trường xung quanh càng chóng bị phân rã, bào mòn, han gỉ đế rồi tan rã.

Như vậy, trao đổi chất là một trong những đặc trưng và là đặc trưng cơ bản nhất của cơ thể sống vì nhờ có trao đổi chất thường xuyên với môi trường xung quanh mà cơ thể sinh trưởng, phát triển và sinh sản để bảo tồn và duy trì sự sống từ thế hệ này qua thế hệ khác. Sống trong môi trường luôn thay đổi, cơ thể phải có những cơ chế thích nghi để bảo đảm sự tồn tại trong những điều kiện luôn đổi thay đó nhờ sự chỉ đạo của thần kinh và thể dịch dưới hình thức cảm ứng.

Bài 2 trang 59 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Nêu rõ mối quan hệ giữa trao đổi chất ở phạm vi cơ thể với trao đổi chất ở phạm vi tế bào.

Lời giải:

Tế bào là đơn vị cấu tạo và đơn vị chức năng của cơ thể sống. Muốn tồn tại và thực hiện mọi hoạt động sống, tế bào phải thường xuyên trao đổi chất với môi trường xung quanh, đó là máu, nước mô và bạch huyết tạo thành môi trường trong của cơ thể và là môi trường bao quanh các tế bào, mang vật chất cần thiết đến cho tế bào để tế bào có thể tồn tại và thực hiện mọi hoạt động sống của nó (đổi mới hoặc thay thế phần vật chất đã bị phận giải, tổng hợp những thành phần chất sống của tế bào, phân giải các chất tạo năng lượng cần thiết cho các hoạt động sống của tế bào và cơ thể) đồng thời thải loại ra môi trường trong những sản phẩm phân huỷ hoặc sản phẩm của chuyển hoá trong tế bào. Vậy tế bào nhận những chất cần thiết từ đâu ? Và đưa những sản phẩm phân huỷ trong tế bào đi đâu ?

Tế bào lấy các chất dinh dưỡng từ thức ăn thông qua cơ quan tiêu hoá và lấy 02 của không khí bên ngoài qua cơ quan hô hấp, nhờ máu do cơ quan tuần hoàn đưa tới và cũng chính cơ quan tuần hoàn đã chuyển các chất thải đến các cơ quan bài tiết để lọc thải ra môi trường ngoài.

Như vậy, sự trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường ngoài liên quan chặt chẽ với trao đổi chất ở tế bào và là điều kiện đảm bảo cho sự trao đổi chất ở tế bào. Nói khác đi, trao đổi chất giữa tế bào với môi trường ngoài là thông qua môi trường trong của cơ thể.

Bài 3 trang 60 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Trình bày mối quan hệ giữa trao đổi chất với chuyển hoá ở tê bào (chuyển hoá nội bào).

Lời giải:

Trao đổi chất chỉ là mặt biểu hiện bên ngoài của quá trình chuyển hoá bên trong của tế bào (còn gọi là chuyển hoá nội bào) bao gồm hai mặt của một quá trình thống nhất. Hai mặt đó là đồng hoá và dị hoá.

- Nhờ có các vật chất vận chuyển qua màng tế bào dưới dạng các hợp chất đơn giản, tế bào mới tổng hợp nên những thành phần vật chất cần thiết cho tế bào hoặc cơ thể, đồng thời tích luỹ năng lượng trong các sản phẩm tổng hợp. Đó là mặt đồng hoá.

- Mặt khác, song song với đồng hoá là mặt dị hoá. Đó là quá trình phân giải các chất nhờ có Ot do máu mang tới, giải phóng năng lượng cho mọi hoạt động sống của tế bào kể cả hoạt động tổng hợp các chất trong đồng hoá cũng sử dụng năng lượng từ quá trình dị hoá.

Như vậy, chuyển hoá vật chất và năng lượng trong tế bào chính là đồng hoá và dị hoá diễn ra bên trong tế bào gọi chung là chuyển hoá nội bào.

Có thể xem như chuyển hoá nội bào là bản chất của quá trình trao đổi chất, còn trao đổi chất chỉ là mặt biểu hiện bên ngoài của chuyển hoá nội bào.

Bài tập tự luận trang 61 SBT Sinh học 8

Bài 1 trang 61 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Phân biệt và nêu mối liên quan giữa tiêu hoá với đồng hoá và dị hoá với bài tiết.

Lời giải:

Các tế bào của cơ thể thường xuyên cần các chất dinh dưỡng và O2 lấy từ môi trường bên ngoài qua thức ăn và không khí thở nhưng thức ăn là các hợp chất phức tạp, các tế bào không thể sử dụng ngay mà phải thông qua một quá trình biến đổi trung gian trong các cơ quan tiêu hoá thành các hợp chất đơn giản như glucôzơ, axit amin, glixêrin và axit béo, được máu đưa đến tế bào để tổng hợp thành phần chất cần thiết cho tế bào và tích luỹ năng lượng trong đồng hoá. Mặt khác, tế bào cũng luôn phân giải các chất hữu cơ phức tạp có trong tế bào để giải phóng năng lượng trong quá trình dị hoá. Các sản phẩm phân huỷ của dị hoá cần được chuyển qua máu và đưa đến cơ quan bài tiết để lọc thải ra môi trường ngoài.

Như vậy, tiêu hoá tạo điều kiện cho đồng hoá. Còn bài tiết là hệ quả của dị hoá nên tiêu hoá không đồng nhất với đồng hoá và dị hoá không phải là bài tiết.

Bài 2 trang 61 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Chuyển hoá cơ bản là gì ? Nêu ý nghĩa của việc xác định chuyển hoá cơ bản.

Lời giải:

Chuyển hoá Cơ bản là mức năng lượng tối thiểu tạo ra khi cơ thể ở trạng thái nghỉ ngơi hoàn toàn (lúc nằm nghỉ và sau khi ăn tối thiểu 12 giờ). Đó là năng lượng cần thiết để duy trì các hoạt động tối thiểu của các cơ quan tuần hoàn, hô hấp và bài tiết.

Mức năng lượng để duy trì sự sống đó được tính bằng kilojun (KJ) trong 1 giờ đối với lkg khối lượng cơ thể trên bề mặt là lm2 da. Việc xác định năng lượng trong chuyển hoá cơ bản ở các lứa tuổi khác nhau trong trạng thái bình thường là để xây dựng một thang đo chuẩn.

Khi so sánh chuyển hoá cơ bản của một người nào đó với thang đo chuẩn, nếu thấy có sự chênh lệch quá lớn có nghĩa là cơ thể của người đó không phải trong trạng thái bình thường mà đang ở trong trạng thái bệnh lí. Chẳng hạn, có thể đo chuyển hoá cho một người nghi là bị ưu năng tuyến giáp, nếu kết quả chênh lệch quá lớn so với thang đo thì có thể kết luận người đó có triệu chứng của bệnh ưu năng tuyến giáp (bệnh bazơđô còn gọi là bệnh bướu cổ lồi mắt).

Bài 3 trang 61 Sách bài tập Sinh học lớp 8: Trình bày cơ chế điều hoà thân nhiệt khi trời nóng, lúc trời lạnh.

Lời giải:

Thân nhiệt là nhiệt độ của cơ thể. Ở người bình thường, thân nhiệt luôn ổn định và dao động xung quanh 37°C không quá 0,5°C. Cơ chế đảm bảo thân nhiệt không đổi là đảm bảo sự cân bằng giữa sinh nhiệt và toả nhiệt.

- Quá trình sinh nhiệt liên quan chặt chẽ với trao đổi chất và chuyển hoá ở các tế bào. Khi cơ thể hoạt động mạnh, trao đổi chất và chuyển hoá tăng cường, cơ năng biến thành nhiệt năng làm thân nhiệt tăng. Để thân nhiệt giảm xuống mức bình thường thì nhiệt sinh ra phải được toả ra ngoài qua mặt da nhờ các mao mạch dưới da dãn ra, đưa máu ra gần mặt da giúp cho sự thoát nhiột được dễ dàng, đồng thời nhịp thở tăng cũng là hình thức trao đổi nhiệt tốt với môi trường xung quanh.

- Khi nhiệt độ môi trường ngoài tăng cao hơn nhiệt độ cơ thể, hình thức toả nhiột bằng bức xạ bị hạn chế, lúc này hình thức điều hoà nhiệt được thể hiện bằng tiết mồ hôi. Mồi hôi bay hơi sẽ thu nhiệt của cơ thể (nhiệt bay hơi). Mó hôi bay hơi càng nhanh khi ở nơi thoáng gió (ta thường dùng quạt cho mát). Đây cũng là hình thức làm nhiệt độ cơ thể giảm khi lao động nặng. Thoát nhiệt bằng tiết mồ hôi phối hợp với hình thức toả nhiệt qua mặt da sẽ làm thân nhiệt mau chóng trở lại bình thường.

Cơ chế điều hoà nhiệt của cơ thể trình bày trên đây thể hiện rõ trong câu ca dao :

Cày đồng đang buổi ban trưa,

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.

Ngược lại, khi trời lạnh thì cơ chế điều hoà để đảm bảo thân nhiệt không đổi bằng tăng sinh nhiệt và giảm toả nhiệt. Cơ thể tăng sinh nhiệt bằng tăng cường trao đổi chất và chuyển hoá. Tăng cường vận động cơ thể là một hình thức tăng sinh nhiệt. Cơ thể thường phản ứng bằng run đối với cái "rét căm căm (hình thức rung cơ tạo nhiệt); đồng thời để đỡ thoát nhiệt, các mạch máu dưới da co lại rút máu vào bên trong để giữ nhiệt (nên da tái môi thâm khi trời rét cũng là một hình thức giảm toả nhiệt). Lạnh "sởn gai ốc" một mặt làm da săn lại, một mặt tăng sinh nhiệt vì đó là biểu hiện của co các cơ dựng lông (điều này có ý nghĩa đối với động vật có bộ lông mao (thú) hoặc lông vũ (chim), khi trời lạnh, cơ dựng lông làm các lông dựng đứng tạo nên một lớp không khí cách nhiệt dày hơn để giữ ấm cơ thể).

Tăng sinh nhiệt khi trời lạnh là tăng quá trình dị hoá, tầng đòi hỏi cung cấp dinh dưỡng để tạo nhiệt cho cơ thê giúp ta hiểu được câu ca dao :

Trời nóng chóng khát (vì mồ hôi thoát ra nhiều, cơ thể mất nước, phản ứng lại bằng cảm giác khát) và trời mát chóng đói (bù đắp vật chất cần thiết cho quá trình dị hoá để tạo năng lượng chống rét).Trời nóng chóng khát, trời mát chóng đói.

Đó chính là cơ chế điều hoà thân nhiệt đã được nhân dân tổng kết.

Xem thêm các bài giải sách bài tập Sinh học lớp 8 hay khác: