SBT Ngữ văn 9 Cánh diều Bếp lửa
Haylamdo biên soạn và sưu tầm lời giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Bếp lửa trang 17, 18 sách Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh lớp 9 dễ dàng làm bài tập trong SBT Văn 9.
Giải SBT Ngữ văn 9 Cánh diều Bếp lửa
Câu 1 trang 17 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Bài thơ Bếp lửa gieo vần gì?
A. Vần chân
B. Vần lưng
C. Vần liền
D. Vần hỗn hợp
Trả lời:
Đáp án D. Vần hỗn hợp.
Trả lời:
– Kết cấu của bài thơ Bếp lửa được tổ chức theo trình tự: hiện tại – quá khứ – hiện tại. Có thể chia bài thơ làm bốn phần:
+ Phần 1 (dòng 1 − 3): Giới thiệu hình ảnh bếp lửa – hình ảnh khơi nguồn cho dòng hồi tưởng về bà.
+ Phần 2 (dòng 4 – 29): Hồi tưởng về bà và bếp lửa gắn với các kỉ niệm.
+ Phần 3 (dòng 30 – 37): Suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.
+ Phần 4 (còn lại): Hình ảnh bà và bếp lửa sống mãi trong tâm hồn cháu.
– Cảm hứng chủ đạo của tác giả trong bài thơ: Bài thơ thể hiện nỗi nhớ, tình thương, sự kính trọng và biết ơn bà của người cháu.
Trả lời:
– Trong phần 2 (dòng 4 – 29), người cháu hồi tưởng các kỉ niệm về bà ở ba thời điểm chính: “lên bốn tuổi”, “tám năm ròng”, “năm giặc đốt làng”.
– Trong mỗi kỉ niệm, tình bà cháu được thể hiện như sau:
+ “Lên bốn tuổi”: gắn với nạn đói mùa xuân năm 1945. In đậm trong tâm trí người cháu là “mùi khói” bếp, “khói hun nhèm mắt cháu” – hình ảnh tượng trưng cho những ngày tháng cơ cực, thiếu thốn trăm bề. Từ đó, người cháu gián tiếp bộc lộ nỗi thương bà. Tình thương ấy khiến người cháu “Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”.
+ “Tám năm ròng”: gắn với những kỉ niệm đầy ắp tiếng chim tu hú và tình cảm bà cháu sâu sắc xung quanh bếp lửa. Tiếng chim như gợi ra tình cảnh vắng vẻ, côi cút, vời vợi nhớ thương của hai bà cháu. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cháu. Cháu thương bà vất vả, khó nhọc một mình, biết ơn bà. Bà cháu quấn quýt bên nhau.
+ “Năm giặc đốt làng”: gắn với những năm tháng đau thương, vất vả, giặc tàn phá xóm làng. Bà vẫn vững lòng trước mọi biến cố, tai hoạ; trở thành chỗ dựa tinh thần cho con, cháu. Cháu biết ơn bà.
– Bà không chỉ là người nuôi nấng, dạy dỗ cháu mà còn là chỗ dựa tinh thần của cháu. Tình yêu thương của bà dành cho cháu trở thành nguồn sức mạnh to lớn giúp cháu khôn lớn và trưởng thành.
A. Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
B. Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
C. Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
D. Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Trả lời:
Đáp án B. Tu hú kêu trên những cánh đồng xa.
Trả lời:
– Trong bài thơ, có 10 lần tác giả nhắc tới bếp lửa. Bếp lửa trong bài thơ vừa là hình ảnh tả thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng.
– Khi nhắc đến bếp lửa, người cháu lại nhớ đến bà và ngược lại. Vì bếp lửa do b nhóm lên, gắn với những khó khăn, gian khổ đời bà; thể hiện sự tảo tần, nhẫn nại và tình yêu thương của bà dành cho con cháu. Bếp lửa được nhóm lên không chỉ bằng nhiên liệu ở bên ngoài mà còn được nhóm bằng ngọn lửa trong lòng bà – ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương, niềm tin của bà.
– Bếp lửa tượng trưng cho tình cảm của bà dành cho con cháu.
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...
a) Các hình ảnh: “Có ngọn khói trăm tàu”, “Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” cho thấy điều gì về cuộc sống của người cháu trong hiện tại?
b) Từ “nhưng” ở đầu dòng thơ thứ ba có ý nghĩa như thế nào?
c) Câu hỏi “– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” thể hiện tình cảm, cảm xúc gì của người cháu?
Trả lời:
a) Các hình ảnh: “Có ngọn khói trăm tàu”, “Có lửa trăm nhà, niềm vui trăn ngả” cho thấy cuộc sống của người cháu trong hiện tại rất đủ đầy, tràn ngập những điều mới mẻ, niềm vui sướng, hạnh phúc. Đó là cuộc sống gần như đối lập với cuộc sống nhiều khó khăn, vất vả, thiếu thốn, đau thương trong quá khứ của người cháu.
b) Từ “nhưng” ở đầu dòng thơ thứ ba mang tính chất chuyển ý, đồng thời tạo nên mối quan hệ đối lập về nghĩa giữa các từ ngữ ở trước và sau từ này. Mặc dù người cháu đã có cuộc sống hạnh phúc, đầy đủ nhưng không bao giờ quên quá khứ gian khó bên bà, vẫn luôn nhớ về bà và bếp lửa tuổi thơ.
c) Câu hỏi “ Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” thể hiện nỗi nhớ, sự khắc khoải của cháu khi nghĩ về bà và niềm biết ơn vô hạn đối với bà.
Trả lời:
Tham khảo hai bài thơ sau đây:
BÀ TÔI
Bà hành khất đến ngõ tôi
Bà tôi cung cúc ra mời vào trong
Lưng còng đỡ lấy lưng còng
Thầm hai tiếng gậy tụng trong nắng chiều.
Nhà nghèo chẳng có bao nhiêu
Gạo còn hai ống chia đều thảo thơm
Nhường khách ngồi chiếc chổi rơm
Bà ngồi dưới đất mắt buồn ngó xa...
Lá tre rụng xuống sân nhà
Thoảng hương nụ vối... chiều qua... cùng chiều.
(Kao Sơn, in trong Xúc xắc, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2006)
ĐÒ LÈN
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực
giữa bà tôi và tiên Phật thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm
Bom Mỹ giội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn
Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm có thôi.
(Nguyễn Duy, in trong Thơ Nguyễn Duy, NXB Hội Nhà văn – Nhã Nam, 2010)
Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Bài 7: Thơ tám chữ và thơ tự do hay khác: