X

Soạn văn 11 Kết nối tri thức

Top 10 Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục


Haylamdo biên soạn và sưu tầm tổng hợp trên 10 văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 10 Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục

Dàn ý Bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ và tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên: Nguyễn Dữ là nhà văn nổi tiếng thế kỉ XVI, “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là một trong 20 câu chuyện hay nhất trong tập Truyền kì mạn lục

- Khái quát vai trò của các yếu tố nghệ thuật: Bên cạnh nội dung, các yếu tố nghệ thuật cũng góp phần đặc biệt quan trọng làm nên đặc sắc của tác phẩm.

II. Thân bài

1. Kết cấu kịch tính, lôi cuốn.

- Kết cấu giàu kịch tính với 4 phần rõ rệt, mỗi phần mang một nội dung riêng và có liên hệ mật thiết với nhau:

+ Phần mở đầu: Ở phần này, tác giả giới thiệu trực tiếp tính cách nhân vật từ đó hướng người đọc vào hành động của nhân vật.

+ Phần thắt nút: Hành động đốt đền tà của Tử Văn

+ Phát triển: Tử Văn lên cơn sốt, gặp tên tướng giặc và thổ thần, bị bắt xuống âm phủ trị tội

+ Cao trào: Diêm Vương chấp nhận yêu cầu đối chất của Tử văn

+ Mở nút: Tên tướng giặc bị trị tội, Tử Văn trở thành quan phán sự

- Kết cấu lôi cuốn:

+ Tử Văn dám làm chuyện mà ai cũng phải lắc đầu lè lưỡi đó là đốt đền tà, người đọc hồi hộp chờ đợi xem diễn biến tiếp theo.

+ Tử Văn nằm mộng gặp hồn ma tên tướng giặc đến hăm dọa bắt dựng lại đền không sẽ bị giết nhưng Tử Văn vẫn thản nhiên, ung dung coi như không có gì. Người đọc hồi hộp chờ xem những hành động tiếp theo của hồn ma tên tướng giặc và Ngô Tử Văn.

+ Tử Văn nằm mộng gặp thổ công, được thổ công chỉ rõ lai lịch và tội ác của tên Bách hộ họ Thôi và được mách nước đối phó với hắn. Diễn biến này của câu chuyện khiến người đọc hình dung ra toàn bộ sự việc và càng mong chờ tình tiết tiếp theo

+ Cuộc đấu tranh dưới Minh ti vô cùng gay cấn với hai chặng rõ rệt: Ban đầu Tử Văn yếu thế trước sự giảo biện, giả dối trắng trợn của tên bách hộ họ Thôi nhưng sau đó tình thế đảo ngược, sau một hồi tranh cãi Diêm Vương bắt đầu nghi ngờ, tên tướng giặc bộc lộ bản chất hèn kém, Tử Văn tự tin và giành thắng lợi.

→ Kết cấu truyện vô cùng lôi cuốn khiến người đọc không thể rời khỏi những tình tiết của câu chuyện.

2. Sử dụng các yếu tố thần kì

a. Các nhân vật kì ảo

- Hồn ma tên tướng giặc:

+ Là tên tướng bại trận của Bắc triều, hôn ma bơ vơ ở Nam quốc

+ Cướp đền thổ công, nhũng nhiều dân lành, chuyên làm trò thảm ngược

+ Bưng bít thượng đế, đút lót tham quan.

+ Khi bị Tử Văn đốt đền, hắn trơ tráo đến dọa nạt bắt phải dựng lại ngôi đền.

+ Dưới minh ti hắn tỏ vẻ nhún nhường, đáng thương, bịa đặt, xảo trá, gian dối nhằm buộc tội Tử Văn

+ Tham sống sợ chết, giả nhân giả nghĩa

- Thổ công:

+ Áo vải mũ đen, dáng vẻ nhàn nhã.

+ Có lai lịch hiển hách: Thể hiện qua lời Diêm Vương “người cư sĩ, trung thuần lẫm liệt, có công với tiên triều...”.

+ Hiền lành, nhún nhường và là nạn nhân của hồn ma tên tướng giặc.

+ Dẫn đường chỉ lối để Tử Văn thắng kiện dưới Minh ti.

- Diêm Vương:

+ Là người đứng đầu Minh Ti có quyền lực tối cao

+ Ban đầu bị hồn ma tên bách hộ họ Thôi lừa gạt, mắng Tử Văn

+ Sau đó sáng suốt, tỉnh táo, suy xét mọi chuyện và phán xét một cách công bằng

- Các nhân vật quỷ, Dạ Xoa góp phần đem đến sự rùng rợn, sinh động cho thế giới âm phủ.

- Tử Văn: Được chết đi sống lại, sau đó sống ở cõi tiên. Yếu tố kì ảo song hành cùng hành trình đấu tranh giành được công lí và có được thành quả của Ngô Tử Văn.

→ Các nhân vật kì ảo xuất hiện chủ yếu là người của cõi âm, đem đến sự lôi cuốn, thú vị, sinh động đặc sắc cho tác phẩm.

b. Không gian kì ảo

- Giấc mơ của Ngô Tử Văn: Không gian nối liền cõi âm và cõi trần, nơi Tử Văn gặp gỡ hồn ma tên tướng giặc và viên Thổ công. Đây cũng là không gian để Tử Văn tạm lìa cõi trần đến cõi âm.

- Không gian Minh ti: Được miêu tả cụ thể, chi tiết: Có một con sông, trên sông bắc một cây cầu dài ước hơn nghìn thước, gió tanh sóng xám hơi lạnh thấu xương.

→ Gợi cảm giác rùng rợn, khiếp sợ. Nhưng chính không gian ấy lại làm nổi bật khí phách của Ngô Tử Văn bình tĩnh, can đảm

⇒ Sử dụng các yếu tố kì ảo đan xen các yếu tố hiện thực làm tăng tính huyền ảo, thiêng liêng cho câu chuyện, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, li kì hấp dẫn và đầy kịch tính bên cạnh những hiện thực được phản ánh.

3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Ngô Tử Văn là nhân vật chính của chuyện được xây dựng bằng cách giới thiệu trực tiếp, bằng lời nói và hành động.

- Hồn ma tên bách hộ họ Thôi là nhân vật phản diện cũng được xây dựng qua hành động, việc làm và lời nói.

- Xây dựng hai tuyến nhân vật thiện ác đối lập rõ rệt

4. Cách kể chuyện

- Có lời kể của người dẫn chuyện, lời đối thoại của nhân vật và lời bình

- Cách kể chuyện tự nhiên, kịch tính, thu hút người đọc.

- Sử dụng những lời bình cho thấy thái độ, sự đánh giá của tác giả về câu chuyện, góp phần định hướng người đọc.

III. Kết bài

- Khái quát lại những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm

- Khẳng định những giá trị nghệ thuật này đã góp phần làm nên nội dung đặc sắc cho tác phẩm, từ đó thấy được mối quan hệ mật thiết giữa nội dung và nghệ thuật.

Bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 1

Người ta thường nói “Ánh nắng là nụ cười vui vẻ của các vị thần trên bầu trời, còn mưa lại chính là những giọt nước mắt của người”. Thần ban cho ta ánh sáng soi sáng vạn vật, phủ lên thế gian một màu vàng tinh tế mà mỹ lệ, là nguồn hy vọng mang trong mình sự trong sáng và thuần khiết nhất.

Nhưng người cũng ban cho ta bóng tối cận kề với người bạn ánh sáng của nó, che phủ vạn vật bằng màu đen u ám, chết chóc, che đậy đi tất cả mặt xấu xa nhất, tàn độc nhất của con người bên lớp vỏ bọc u tối đó.

Cũng giống như xã hội loài người vậy, đều có hai mặt, bóng tối và ánh sáng, một xã hội tràn ngập ánh đen bất tận, bao trùm bởi nạn tham nhũng, mê tín dị đoan, sự tắc trách của các quan lớn đó, luôn có những tia sáng của sự quả cảm, tinh thần chính nghĩa hiển hiện và chiếu rọi thế gian. Xã hội đó được Nguyễn Dữ phát nét vô cùng chân thật trong tác phẩm “Chuyện chức phán sự Đền Tản Viên”.

Có câu nói thế này “Yêu quái không đáng sợ, đáng sợ là yêu quái giả dạng thần tiên”. Bối cảnh câu chuyện có lẽ không mấy xa hoa, hào nhoáng, cũng không mấy đẹp đẽ, nhưng lại thể hiện rất rõ câu nói trên. Tại một ngôi làng thuộc huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang có một ngôi đền được bảo là linh ứng lắm, chả là cuối đời nhà Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, một vị tướng giặc họ Thôi tử trận gần ngôi đền, thế là vị tướng này ban ngày làm thần ban đêm làm ma quấy nhiễu dân làng, cướp ngôi đền từ tay Thổ công, giả mạo họ tên của ngài.

Vị Thổ công ấy muốn báo lên Diêm Vương nhưng khổ nỗi những đền miếu gần đây vì tham của đút, đều bên vực cho tướng giặc họ Thôi kia, có thể nói vị tướng giặc này quá khôn ngoan, hay nói vị Thổ công này quá lương thiện chăng? Lại tiếp tục câu chuyện, sau khi bị Ngô Tử Văn – nhân vật chính – đốt mất ngôi đền thì lại đến mắng chửi dọa dẫm chàng, bị chàng phớt lờ thì báo Diêm Vương, mặc dù bản thân chẳng đúng gì cả nhưng vẫn chối cãi và đổ tội cho chàng trai Tử Văn.

Thế nhưng, công lí lúc nào cũng chiến thắng, hắn ta không những không được xây lại ngôi đền mà còn bị bỏ vào ngục Cửu U, ngôi mộ của hắn cũng bị bật tung lên. Tác giả đồng thời phê phán cái ác, cái bất lương thông qua hình ảnh tướng giặc họ Thôi kia: khi sống làm giặc ngoại xâm, cướp bóc, giết hại dân làng; khi chết lại làm yêu quấy nhiễu nhân dân, tham lam, dối trá, xảo quyệt. Cùng với đó là phê phán hiện trạng xã hội đen tối, u ám: tham nhũng, đút lót.

Một xã hội đen tối không chỉ bởi sự tác động của một hai việc làm, tham nhũng, đút lót là một mà một yếu tố quan trọng khác là sự tắc trách, xa dân của các quan lớn, quan trên mà ở câu chuyện này là hình ảnh của Diêm Vương, người phán xét công lí.

Chẳng những không hay biết gì về chuyện trên nhân gian, về sự hoàn hành của yêu quái, mà còn vội vàng kết luận, tin những lời bịa đặt hàm hồ của tướng giặc họ Thôi kia. Chuyện là sau khi vị tướng giặc họ Thôi kia thông báo việc Tử Văn đốt đền, Diêm Vương liền sai hai tên quỷ sứ lên bắt Tử Văn xuống âm ti hỏi chuyện.

Nói là hỏi chuyện nhưng trên thực tế, Tử Văn vừa xuống âm ti đã bị quy vào “Tội sâu ác nặng, không được vào hàng khoan giảm”. Đến khi được mời vào cửa điện âm phủ, Tử Văn lại bị đội thêm cái mũ “Là một kẻ hàn sĩ, dám hỗn láo”, “Mồm năm miệng mười, đơm đặt bịa tạc”. Ở nhân gian chẳng phải có câu “Trăm nghe không bằng mắt thấy” hay sao? Chẳng lẽ Diêm Vương lại không biết?

Thường nói, đền là nơi thờ cúng thần bà, ở đây là chỉ Thổ công, người người cúng bái khẩn cầu, mong được bình yên, an ổn. Mà những thứ như thần, Thổ công, Ngọc Hoàng,… chẳng qua cũng chỉ là do trí tượng tưởng của con người mà thành, họ mong muốn sẽ luôn có một vị đấng tối cao nào đó luôn cầu phúc cho họ, để họ được sống vui vẻ, tai qua nạn khỏi, tất cả đều gọi là tín ngưỡng.

Xong quá tin vào đó mà phát sinh ra cảm giác dựa dẫm, sợ hãi đối với tầng lớp linh thiên đó còn được gọi là “mê tín dị đoan”. Lại nói đến việc Ngô Tử Văn đốt đền, “Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi, lo sợ”, không một ai ủng hộ. Tại sao lại vậy? Qua câu chuyện, tác giả còn phê phán tệ nạn mê tín dị đoan của con người: đều sợ đốt đền là bất kính với thần linh, sợ thần trừng phạt, trong khi bị chính chủ ở đó quấy nhiễu, tàn hại.

Thế nhưng, hiện lên trên tất cả những thói hư, những điều chẳng mấy tốt đẹp đó là lòng dũng cảm, cương trực của chàng Ngô Tử Văn. Ngay từ chữ đầu tiên bắt đầu câu chuyện, tác giả đã giới thiệu về Ngô Tử Văn là một người khảng khái nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được, là một người cương trực, được nhiều người khen ngợi. Và tất nhiên, không chỉ bằng những câu nói suông đó mà đã có thể bộc lộ hết được tính cách và tâm hồn cao đẹp của Tử Văn, mà nguồn sáng đó được tác giả hé mở từng chút một trong những hành động và thái độ của chàng.

Bởi lẽ tức giận trước cảnh yêu quái tác oai tác oái, Tử Văn đã quyết định đốt đền – nơi tướng giặc họ Thôi trú ngụ. Trước khi thực hiện, chàng tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi mới châm lửa đốt đền. Không những dũng cảm có lòng trừ hại cho dân, chàng còn là người có hiểu biết và tôn kính thần linh, trời đất, biết phân biệt được cái ác và cái thiện, không tin một cách mù quán thần linh; hành động dứt khoát, tự tin cho thấy chàng tin tưởng vào việc làm của mình, việc làm chính nghĩa.

Sau khi đốt đền, Tử Văn lên cơn sốt nóng, tối đó có một vị khách tự xưng cư sĩ tới hăm dọa, chửi mắng, thế nhưng chàng vẫn ngồi ngất ngưỡng tự nhiên, phớt lờ gã cư sĩ kia. Hành động đó lại càng thêm khẳng định vào việc chàng rất tin tưởng vào bản thân của mình, thái độ điềm nhiên cứ như chàng không phải là người bị đe dọa, hoàn toàn không bị khuất phục trước thần quyền.

Sau, chàng gặp được người tự xưng là Thổ công thì vô cùng kinh ngạc, cứ ngỡ người ban nãy là Thổ công, biết được sự tình từ người mới đến, chàng hỏi: “Hắn có thật là tay hung hãn”, không có ý hỏi, nhưng lại có ý châm biếm, bởi lẽ có câu thế này “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng” không phải sao? Tử Văn lắng nghe lời dặn dò của Thổ công, đêm đến bệnh càng thêm nặng, rồi bị hai tên quỷ sứ bắt đi.

Chàng bị dẫn xuống nơi “có quỷ Dạ xoa nanh ác, gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương” – âm ti – liền bị chụp rằng “Tội sâu ác nặng”, chàng vẫn không sợ hãi mà dõng dạc kêu oan. Khi được mời vào cửa điện âm phủ, bị sự bắt tội của Diêm Vương, sự vu cáo bởi hồn ma tướng giặc họ Thôi, chàng không những run sợ mà yếu thế, ngược lại còn không chịu nhún nhường, kiên quyết định tội tên tướng giặc, đưa ra bằng chứng tố cáo được Thổ công kể cho.

Hành động này của chàng lại một lần nữa cho thấy chàng luôn tin vào việc làm chính nghĩa của mình, dũng cảm và tin vào công lý. Suốt cả câu chuyện, mỗi hành động của Tử Văn đều thống nhất với tính cách mà tác giả đã phát nét cho chàng ở đầu chuyện. Qua hình ảnh chàng dũng sĩ Ngô Tử Văn, tác giả đã đề cao tính cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân, là một bài học đáng quý cho thanh thiếu niên bây giờ và cả mai sau.

Tác giả thật tài tình phác họa bức chân dung đối lập của hai nhân vật Ngô Tử Văn và tướng giặc họ Thôi về tính cách, con người và cả kết cục. Tướng giặc họ Thôi bị giam ở ngục Cửu U còn Tử Văn lại được phong cho chức phán xự ở đền Tản Viên, một chức vị xứng đáng cho chàng – phán xự – chức vị phán xét công lí. Từ đó, thể hiện niềm tin vào công lý, chính nghĩa luôn chiến thắng gian tà.

Ánh sáng và bóng tối luôn đối lập với nhau, nhìn thì có vẻ ánh sáng luôn bị bao trùm bởi bóng tối, nhưng sự thực cho thấy rằng, cho dù không gian bóng tối đó có lớn bao nhiêu đi chăng nữa nhưng chỉ cần một tia sáng, tất cả bóng tối sẽ bị tan biến, thanh trừ tất cả những thứ xấu xa, ôm trọn lấy nó là ánh sáng ấm áp và thuần khiết. Cũng như câu chuyện trên, rồi ánh sáng cũng sẽ chiến thắng bóng tối.

Bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 2

Khác với một số truyện trong đó Nguyễn Dữ trình bày lai lịch và hành trình số phận của nhân vật từ đầu đến cuối, Chuyện chúc phán sự ở đền Tản viên chỉ chọn 1 thời điểm có ý nghĩa nổi bật để bộc lộ đầy đủ tính cách nhân vật. Chuyện giống như một màn kịch ngắn, mở màn là sự xuất hiện của ngô Từ Văn với hành động châm lửa đốt đền thiêng. Hành độn đó chính là ngòi nổ cho 1 cuộc chiến đấu giữa chàng và hồn ma tên tướng giặc bại trận.

“Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” viết bằng chữ Hán theo thể văn xuôi truyền kỳ. Đây là thể loại văn học phản ánh hiện thực cuộc sống qua những yếu tố kỳ ảo hoang đường. Nhân vật trong bộ truyền kỳ gồm cả người, ma quỷ, thần thánh, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có thể xâm nhập thế giới của nhau. Bộ truyện “Truyền kì mạn lục” được sáng tác vào khoảng thế kỉ XVI, lúc xã hội phong kiến Việt Nam rơi vào suy thoái, khủng hoảng, nhân dân bất bình với tầng lớp thống trị, nhiều nho sĩ rơi vào tâm trạng hụt hẫng, nuối tiếc cho thời thịnh trị dưới sự cai trị của vua Lê Thánh Tông. Nguyễn Dữ sáng tác bộ truyện trong khoảng thời gian ông đã cáo quan ở ẩn vừa để phản ánh tình trạng xã hội, vừa để bộc lộ quan điểm sống và tấm lòng của ông với cuộc đời.

Nhân vật chính của tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” xuất hiện ngay từ đầu truyện bằng mấy dòng giới thiệu trực tiếp ngắn gọn về tên họ, quê quán, tính tình, phẩm chất. Ngô Tử Văn được giới thiệu là người tính tình cương trực, thẳng thắn, khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được. Lời giới thiệu mang giọng ngợi khen, có tác dụng định hướng cho người đọc về hành động kiên quyết của nhân vật này. Minh chứng rõ ràng cho tính cách cứng cỏi của Ngô Tử Văn là hành động đốt đền tà của chàng. Trong khi mọi người đều lắc đầu, lè lưỡi, không dám làm gì quỷ thần ở ngôi đền gần làng quấy hại nhân dân thì Tử Văn cương quyết, công khai, đường hoàng, ung dung, tắm rửa sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt hủy ngôi đền. Hành động đó xuất phát từ ‎ muốn diệt trừ yêu ma, trừ hại cho dân, từ lòng tự tin vào chính nghĩa của Ngô Tử Văn, chứng tỏ cốt cách khảng khái của kẻ sĩ.

Sự cương trực, khảng khái của Ngô Tử Văn còn bộc lộ rõ qua thái độ của chàng với hồn ma tên tướng giặc. Tướng giặc khi sống là kẻ xâm lược nước ta, tàn hại dân ta, khi chết rồi vẫn quen thói ỷ mạnh hiếp yếu, cướp nơi trú ngụ của thổ thần nước Việt, lại còn gian trá bày trò đút lót rồi tác yêu tác quái với nhân dân trong vùng. Hắn bị Tử Văn đốt đền là đáng đời nhưng lại hiện hình, xảo quyệt làm như mình là kẻ bị hại, dùng tà phép khiến cho chàng bị sốt nóng sốt rét, đầu lảo đảo. Hồn ma tướng giặc buông lời mắng mỏ, đe dọa, quyết kiện Tử Văn xuống tận Diêm Vương. Trước sự ngang ngược trắng trợn, quyền phép đáng sợ của hồn ma tướng giặc, Ngô Tử Văn vẫn điềm nhiên, không hề run sợ mà tự tin, không coi những lới đe dọa ra gì, thậm chí chẳng thèm tiếp lời hồn ma tướng giặc. Thái độ ấy thể hiện một khí phách cứng cỏi, một niềm tin mạnh mẽ vào chính nghĩa, sự đúng đắn trong hành động của Ngô Tử Văn. Mặt khác, bản lĩnh của chàng còn thể hiện qua thái độ biết ơn lời chỉ dẫn của thổ thần nước Việt. Do Tử Văn dũng cảm, trừ hại cho dân nên thần linh mới phù trợ giúp đỡ chàng.

Tính cách kiên định chính nghĩa của Ngô Soạn còn thể hiện rõ trong quá trình chàng bị lôi xuống địa phủ. Cảnh địa phủ rùng rợn với quỷ sứ hung ác, con sông đầy gió tanh sóng xám. Tử Văn bị bọn quỷ sai lôi đi rất nhanh, bị phán xét lạnh lùng là kẻ “tội sâu ác nặng, không được liệt vào hàng khoan giảm”, bị kết thêm tội ngoan cố bướng bỉnh nhưng chàng chẳng hề run sợ, không hề nhụt chí, một mực kêu oan, đòi phải được phán xét công khai, minh bạch. Khi đối diện trước Diêm vương uy nghiêm, Tử Văn đấu tranh vạch tội tên tướng giặc bằng những lí lẽ cứng cỏi, bằng chững không thể chối cãi, giọng điệu rất đanh thép vững vàng. Chàng đã bảo vệ lẽ phải mà bất chấp tính mạng của mình, không chịu khuất phục trước uy quyền, kiên quyết đấu tranh cho công lí và lẽ phải đến cùng. Kết quả, chàng đã chiến thắng hồn ma gian tà của tên tướng giặc, bảo toàn được sự sống của mình, được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm giữ gìn bảo vệ công lí. Chiến thắng ấy của Ngô Tử Văn có ‎ nghĩa vô cùng to lớn, đã trừng trị đích đáng hồn ma tướng giặc xảo trá, làm sáng tỏ nỗi oan khuấ, phục hồi chức vị cho thổ thần nước Việt, giải trừ tai họa cho nhân dân.

Qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng, chống lại cái ác, Ngô Tử Văn đã nổi bật lên là người chính trực, khảng khái, dũng cảm bảo vệ công lí đến cùng, là một kẻ sĩ cứng cỏi của nước Việt. Từ đó, tác giả Nguyễn Dữ đã khẳng định niềm tin chính nghĩa nhất định thắng gian tà, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, bộc lộ quyết tâm đấu tranh triệt để với cái xấu cái ác.

Truyện thông qua cuộc đấu tranh của Ngô Tử Văn còn ngầm phản ánh thế giới thực của con người với đầy rẫy sự việc xấu xa như nạn ăn của đút,tham quan dung túng che dấu cho cái ác hoành hành, công lí bị che mắt.

Bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 3

Nguyễn Dữ là một trong những tác giả đáng chú ý của nền văn học trung đại Việt Nam, tuy số lượng sáng tác không nhiều, thế nhưng ông lại là người đã đưa làn gió mới vào văn học dân tộc, mở đường cho thể loại truyện truyền kỳ du nhập vào nền văn học phong phú của nước ta với tập Truyền kỳ mạn lục viết bằng chữ Hán, ra đời khoảng thế kỷ thứ XVI. Nội dung truyện chủ yếu hướng đến ý nghĩa giáo dục lối sống con người hành thiện tích đức, đấu tranh mạnh mẽ chống lại cái ác cái xấu xa, bất công trong xã hội. Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên là một trong số 20 truyện ngắn trích rút từ Truyền kỳ mạn lục, đây là truyện tiêu biểu và xuất sắc nhất thể hiện rõ ý đồ cũng như tư tưởng của tác giả. Làm nên thành công của truyện không chỉ nhờ vào phần nội dung có giá trị nhân văn sâu sắc mà còn nhờ vào những đặc sắc nghệ thuật được Nguyễn Dữ sử dụng một cách tinh tế và linh hoạt trong tác phẩm, nhấn mạnh và khắc sâu thêm ý nghĩa giáo dục, phê phán và khuyên răn của truyện.

Nét đặc sắc nghệ thuật đầu tiên và cũng là tiêu biểu nhất bao trùm toàn bộ tác phẩm ấy là nghệ thuật kể chuyện với kết cấu truyện giàu kịch tích, nhiều chi tiết lôi cuốn, cách dẫn dắt chuyện khéo léo, hợp lý, cách kể tả sinh động và hấp dẫn. Nguyễn Dữ đã mở đầu câu chuyện bằng cảnh Tử Văn tắm rửa sạch sẽ, khấn vái rồi "châm lửa đốt đền. Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi lo sợ thay cho Tử Văn...". Cách mở đầu đã gây cho độc giả nhiều sự tò mò, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra như vì sao Tử Văn đốt đền, vì sao mọi người lại lo sợ,... khiến độc giả có hứng thú tiếp tục tìm hiểu sâu vào câu chuyện. Tiếp đến tác giả bắt đầu tạo ra các nút thắt cho câu chuyện, từ nhỏ đến lớn, rồi dẫn đến những cao trào mạnh mẽ, khiến độc giả hồi hộp trông ngóng cách Nguyễn Dữ gỡ nút thắt. Khởi nguồn từ việc chàng Ngô Tử Văn sau khi đốt đến thì bỗng "thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo, bụng run run rồi cả người nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét", sau đó trong cơn mê sảng thì gặp một kẻ đội mũ trụ, mặc áo giáp, lúc đầu thì giả vờ khuyên giả Tử Văn dựng lại đền, sau thấy chàng dửng dưng thì nổi giận buông lời đe dọa sẽ cho Tử Văn gánh hậu quả khôn lường. Dĩ nhiên rằng với một kẻ đê tiện như tên tướng giặc họ Thôi thì hắn sẽ trả thù Tử Văn bằng mọi cách, sau đó để mở dần đường giải quyết câu chuyện Nguyễn Dữ đã kể chuyện về vị Thổ thần đến mách nước cho Tử Văn biết về chuyện tên yêu quái đã kiện chằng ở Minh ti, để cho chàng chuẩn bị. Đồng thời lúc này đây, Thổ Thần cũng giãi bày nguyên cớ sự việc để cho Tử Văn có đường ăn nói kêu oan dưới Minh ti. Quả nhiên sau đó đến nửa đêm bệnh của Tử Văn trở nặng rồi bị bắt xuống dưới Minh ti, đường đi liên tục hiện ra những quang cảnh hãi hùng, sống động, mở ra trong mắt người đọc những liên tưởng đặc sắc, thú vị về sự rùng rợn cõi âm bằng các chi tiết nhỏ như "...gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương. Hai bên cầu có đến mấy vạn quỷ Dạ Xoa đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác...". Tuy nhiên Ngô Tử Văn là người chính trực, gan dạ chàng không vì thế mà nản lòng, đến nơi trước điện Diêm Vương chàng bình tĩnh, khẳng khái trả lời và đối đáp một cách mạch lạc với cả Diêm Vương và tên tướng giặc họ Thôi "lời rất cứng cỏi không chịu nhún nhường chút nào". Tại đây nút thắt truyện dần được nới lỏng, Diêm Vương là vị quan thông minh và chính trực thấy Tử Văn ngay thẳng, lời lẽ cương trực nên nỗi lòng nghĩ về sự "thật thà" của hồn ma tên tướng giặc. Từ đó dẫn đến việc Diêm Vương sai người tra xét rõ ngọn ngành, cho gọi Thổ Thần thật tới, cuối cùng câu chuyện được mở nút, mọi sự sáng tỏ, kẻ nào đáng tội phải chịu phạt, Tử Văn được tha bổng, cho sống lại, cuối cùng nhận sự đền đáp là chức Phán sự đền Tản Viên, trở thành bậc tiên giả được người đời kính trọng, phúng viếng. Mở đầu truyện và xuyên suốt truyện là những nút thắt liên tục, căng thẳng và hồi hộp, kết truyện hợp lý, viên mãn khiến độc giả hài lòng và rút ra được nhiều bài học hay đó là nghệ thuật kể truyện đặc sắc mà Nguyễn Dữ đã vận dụng rất thành công.

Chi tiết nghệ thuật thứ hai không kém phần quan trọng ấy là những chi tiết hoang đường kì ảo được đan xen trong truyện bao gồm sự thông linh giữa ba cõi trần-tiên-ma, gây hứng thú sâu sắc cho người đọc. Các chi tiết hoang đường như cảnh rùng rợn ở cõi âm, sự xuất hiện của các nhân vật dưới điện Diêm Vương tăng thêm phần kịch tính, mở ra một không gian truyện mới lạ, hấp dẫn. Việc xây dựng các nhân vật kỳ ảo như hồn ma tên tướng giặc họ Thôi, Diêm Vương, Thổ công là ý tưởng của tác giả về sự liên kết chặt chẽ giữa các thế giới thực và ảo, mỗi nhân vật là đại diện cho một thế lực trong xã hội, không chỉ đúng với cõi trần gian và giữa ba cõi tiên, âm, dương cũng đều đúng. Khi mà tên tướng giặc họ Thôi là đại diện cho cái ác, dối trá, lúc sống thì làm quân xâm lược, khi chết lại làm yêu quái, tham lam, đút lót hối lộ, phá hoại sự yên bình của cả ba giới. Thổ thần là tiên, đại diện cho bên thiện, nhưng bị cái ác chèn ép, phải cần có sự hỗ trợ của Tử Văn để lấy lại công bằng cho mình. Còn Diêm Vương là đại diện cho người phán xử, quyền lực, có năng lực phân xét đúng sai, trả lại công bằng cho cho người lương thiện, và trừng phạt kẻ ác. Sự xuất hiện của các nhân vật có mang yếu tố hoang đường kì ảo không chỉ đem lại sức hấp dẫn cho tác phẩm mà còn có ý nghĩa giáo dục con người rằng dù sống hay chết thì thế giới vẫn luôn có trật tự, thiện luôn thắng ác, con người dù ở cõi nào cũng phải hành xử đúng mực, chết không phải là đã kết thúc. Từ đó ta thấy được rằng tư tưởng răn đe và giáo dục mà Nguyễn Dữ muốn truyền tải cũng trở nên sâu sắc, ấn tượng hơn.

Cuối cùng đặc sắc của truyện còn nằm ở việc xây dựng tuyến nhân vật thiện - ác tương phản đối lập nhau rõ ràng. Nhân vật Ngô Tử Văn tuy chỉ là người phàm nhưng dũng cảm có tấm lòng hành thiện trượng nghĩa, bình tĩnh trước mọi biến cố xảy đến, khi cần thưa chuyện thì nói năng mạch lạc, chứng cứ rõ ràng, không hề chịu lép vế trước tên giặc họ Thôi. Trái lại hồn ma tên tướng giặc thì có phép thuật, mạnh hơn Tử Văn, thế nhưng lại làm việc ác, giả nhân giả nghĩa, nói dối trắng trợn, cuối cùng đành chịu đuối lý trước sự vạch trần mạnh mẽ, thẳng thắn của Ngô Tử Văn. Đọc truyện ta có thể thấy tính chất thiện-ác của nhân vật được bộc lộ một cách rõ ràng qua lời nói, hành động, cùng với nội tâm (Ngô Tử Văn), điều đó giúp độc giả có một cái nhìn đa chiều và khách quan hơn về các nhân vật.

Thêm một chi tiết nữa về nghệ thuật kể chuyện, mà nói đúng ta là các vận dụng câu chữ, Nguyễn Dữ không kể chuyện bằng một lối duy nhất mà thay vào đó ông phát triển câu chuyện cả trên ba phương diện ấy là lời kể khách quan của người dẫn chuyện, tính chủ quan trong lời thoại của các nhân vật và cuối cùng là phần lời bình đưa ra các nhận xét đánh giá chung, để giúp người đọc hiểu hơn về tư tưởng, cốt truyện và nhân vật. Đó là một cách kể chuyện hay, tự nhiên, linh hoạt và hấp dẫn mà không phải tác phẩm nào cũng có được.

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một truyện truyền kỳ hay và đặc sắc, làm nên giá trị nhân văn, ý nghĩa giáo dục của câu chuyện không chỉ bởi nội dung tranh đấu giữa cái thiện và cái ác, mà còn nằm ở cả nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm, tô đậm, điển hình hóa từng nhân vật, phác họa rõ bối cảnh, làm nổi bật chủ đề và tư tưởng của tác giả, tác phẩm. Câu chuyện đã chứng minh được tính chất liên quan mật thiết giữa nội dung và nghệ thuật trong một tác phẩm văn học, một tác phẩm hay không chỉ cần nội dung tốt mà còn cần cả sự linh hoạt, khéo léo của nghệ thuật, giống như một món ăn tuyệt vời, không chỉ cần ngon mà còn cần đẹp mắt.

Bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 4

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" trích "Truyền kì mạn lục" của Nguyễn Dữ đã để lại trong em những ấn tượng khó quên. Không chỉ là một câu chuyện đơn thuần, tác phẩm còn chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc, truyện mang đến cho ta bài học về đạo đức thông qua nhân vật Ngô Tử Văn.

Ngô Tử văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng đất Lạng Giang. Chàng có tính cách ngay thẳng, thật thà "thấy sự tà gian thì không thể chịu được". Mọi người vùng Bắc đều ngợi khen chàng là người cương trực. Trong làng Ngô Tử Văn sinh sống có một ngôi đền thiêng. Tuy nhiên, cuối đời nhà Hồ, quân Ngô sang lấn cướp, bộ tướng Mộc Thạnh có "viên Bách hộ họ Thôi tử trận gần đền, từ đấy làm yêu làm quái trong dân gian". Điều này khiến Ngô Tử Văn rất tức giận và chàng đã đốt đền. Sau khi đốt đền về nhà, chàng đã lên cơn sốt rét, trong cơn sốt chàng đã thấy một người tự xưng là cư sĩ nhưng thật ra lại là một viên tướng bại trận ở Bắc triều lên đe dọa nếu không trả lại ngôi đền thì sẽ gặp phiền phức. Ngô Tử Văn được Thổ công mách bảo về những việc làm sai trái của tên hung thần và cách để trị tên hắn nên khi xuống âm phủ Ngô Tử Văn đã thẳng thắn tố cáo tội các của tên viên tướng bại trận với Diêm Vương. Diêm Vương sinh nghi nên đã cho người đến đền Tản Viên gặp Thổ công để chứng thực. Sau khi Tử Văn được minh oan, chàng được Diêm Vương cho sống lại.

Truyện đã khắc họa thành công nhân vật Ngô Tử Văn - một người thẳng thắn, cương trực dám đứng lên bảo vệ lẽ phải. Ngô Tử Văn đốt đền khiến cho hồn ma tên tướng bại trận tức giận. Thế nhưng, Tử Văn không hề sợ hãi, chàng cho rằng việc làm của mình là đúng nên khi tên tướng bại trận hiện lên đe dọa thì Từ văn vẫn "ngồi ngất ngưởng tự nhiên". Điều đó cho thấy Tử Văn là một người có bản lĩnh, có khí chất, dám đối diện với cái xấu, cái ác. Khi được Thổ công hỗ trợ để tiêu diệt hồn ma tên tướng bại trận, Tử Văn đã chấp nhận xuống Minh ti để tố cáo tội các của tên giặc này. Cuối cùng, trải qua bao gian nguy, Ngô Tử Văn giành được chiến thắng vẻ vang, đem lại an lành cho dân và phục hồi danh vị cho Thổ công. Ngô Tử Văn chính là hình tượng cho kẻ sĩ cương trực, thẳng thắn, chiến đấu đến những hơi thở cuối cùng để đòi lại công bằng, lẽ phải cho chính mình và người khác.

Không chỉ khắc họa con người cương trực, thẳng thắn, dám đứng lên bảo vệ công lí, "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" còn lên án, tố cáo những kẻ gian manh và tham lam trong xã hội đương thời. Hiện thân của chúng chính là lũ ma quỷ nơi cõi âm "dối trá càn bậy". Kẻ ác luôn bị trừng phạt một cách thích đáng giống như dân gian ta thường có câu "Gieo nhân nào thì gặt quả ấy". Tên Bách hộ họ Thôi lúc sống là kẻ cướp nước nên khi chết thì làm hồn ma xâm chiếm, giả danh Thổ công nên bị Diêm Vương "sai lấy lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng, bỏ vào ngục Cửu U".

Không những vậy, chiến thắng của Ngô Tử Văn còn thể hiện ước mơ của nhân dân về một xã hội công bằng, cái thiện luôn chiến thắng cái xấu và cái ác. Điều này cũng được thể hiện qua sự kiện cuối cùng trong tác phẩm, khi chàng được nhận chức Phán sự đền Tản Viên.

Ngoài ra, nghệ thuật cũng góp phần làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Với cốt truyện đặc sắc, hấp dẫn và việc xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập trong tác phẩm, truyện đã khiến người đọc có hình dung sâu sắc về cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. Truyện còn có sự kết hợp giữa yếu tố thực và ảo qua những chi tiết như: yếu tố thực (lai lịch Ngô Tử văn và lai lịch viên Bách hộ họ Thôi; thời gian diễn ra sự việc: Cuối đời nhà Hồ, quân Ngô sang xâm lược nước ta), yếu tố kì ảo (nhân vật kì ảo: Hồn ma viên bách hộ họ Thôi, Thổ công, Diêm Vương, quỷ Dạ Xoa; không gian kì ảo: Không gian nối liền giữa cõi âm và cõi dương, việc Ngô Tử Văn chết đi hai ngày sau đó sống lại và nhận chức Phán sự ở cõi âm). Yếu tố thực đan xen với các yếu tố kì ảo nhằm tăng tính hấp dẫn cho truyện, khiến người đọc có những cảm nhận mới lạ. Lời bình cuối truyện là lời tác giả bộc lộ về kẻ sĩ: Kẻ sĩ cần cứng cỏi, luôn cương trực, dũng cảm chống lại gian tà.

"Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên" là một câu chuyện giàu ý nghĩa, mang đến cho chúng ta những bài học đạo đức trong cuộc sống. Với cốt truyện đặc sắc, việc sử dụng các yếu tố kì ảo đan xen hiện thực một cách tinh tế, Nguyễn Dữ đã khắc họa nhân vật Ngô Tử Văn với sự kiên cường, dũng cảm. Chiến thắng của Ngô Tử Văn thể hiện ước mơ của nhân dân về một xã hội công bằng, cái thiện luôn bất bại trước cái xấu, cái ác. Không chỉ vậy, truyện còn phê phán những kẻ tham lam, gian manh của xã hội đương thời. Những bài học giá trị tác phẩm đem lại còn tồn tại mãi cho hôm nay và mai sau.

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên có sức hấp dẫn thật đặc biệt. Hi vọng rằng bài Phân tích, đánh giá chủ đề, nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên sẽ giúp các em mở rộng vốn tri thức và tự tin hơn khi tìm hiểu về tác phẩm.

Bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 5

Người xưa từng răn dạy rằng “cây ngay không sợ chết đứng”, “ở hiền thì gặp lành”. Những người chính trực, ngay thẳng thì sẽ nhận được những điều tốt đẹp. Tiếp thu tinh thần ấy, với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, trí tưởng tượng vô cùng phong phú, Nguyễn Dữ đã viết Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.

Sự xuất hiện của Truyền kì mạn lục cùng với các tập truyện truyền kì khác như Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh)… đã mang đến cho văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam một bước phát triển mới, rất đáng tự hào. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên kể chuyện Ngô Tử Văn đốt đền, qua đó thể hiện những nội dung tư tưởng sâu sắc.

Sự xen lẫn các yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo đã mang đến cho truyện một sức hấp dẫn riêng. Ngô Tử Văn là nhân vật chính của tác phẩm, được tác giả giới thiệu theo cách kể chuyện quen thuộc của văn học trung đại, bao gồm tên tuổi, quê quán và tính cách.

Tử Văn là người khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc vẫn khen là một người cương phương. Tính tình cương trực của Tử Văn đã nổi tiếng cả vùng Bắc, và chính tính cách là mấu chốt của câu chuyện. Tử Văn đã dám làm việc mà mọi người đều kính sợ, không ai dám làm, đó là đốt đền. Theo quan niệm của dân gian, đốt đền là một chuyện động trời, là động đến thần thánh. Tử Văn cũng biết đều đó nhưng chàng không sợ. Hành động của Tử Văn xuất phát từ tính cách “vốn ghét sự gian tà”. Chàng đốt đền bởi hồn ma tên tướng giặc trong đền đã “hưng yêu tác quái”, đã làm hại dân lành. Hành động này của Tử Văn khẳng định tính tình ngay thẳng và quyết tâm trừ gian tà của chàng.

Để trừ gian tà, chàng đã dám làm việc động trời như vậy. Hành động của chàng không phải là hành động ngang ngược của một kẻ vô đạo. Tử Văn là người đọc sách thánh hiền nên chàng hiểu rõ việc mình làm, Tử Văn “tắm gội sạch sẽ, khấn trời, rồi châm lửa đốt đền”. Những hành động tiếp theo của Tử Văn đều chứng tỏ chàng là một người ngay thẳng, không chịu khuất phục tà gian.

Trước những lời đe dọa của hồn ma tên tướng giặc, Tử Văn “vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên”, trước không khí đáng sợ ở âm phủ, trước lời mắng chửi và đe dọa của Diêm vương, Tử Văn vẫn bình tĩnh khẳng định “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian”. Tính tình cương trực đã giúp Tử Văn chiến thắng kẻ ác, chàng đã vạch trần được tội ác của hồn ma lưu vong, đã lấy lại được ngôi đền cho Thổ thần, và trở thành một viên quan phán sự ở Minh ti. Đối lập với sự ngay thẳng của Tử Văn là sự gian trá, xảo quyệt của viên Bách hộ họ Thôi, một tên tướng giặc bại trận phải bỏ thân nơi đất khách.

Không nơi nương tựa, không người cúng tế, hồn ma lưu vong của tên tướng giặc đã cướp ngôi đền của Thổ thần lại còn tác oai tác quái, gây hoạ cho dân lành. Hắn còn xảo trá tới mức đút lót, dọa nạt những thần xung quanh. Khi Tử Văn đốt đền, hắn dùng lí lẽ đạo Nho để buộc tội, lấy oai linh quỷ thần để dọa nạt. Tử Văn không sợ thì hắn xuống tận Diêm Vương để cầu cứu.

Sự nham hiểm của kẻ xâm lược, bản chất của kẻ cướp nước còn được thể hiện rõ hơn ở hành động và lời buộc tội Tử Văn trước Diêm Vương. Khi có nguy cơ bị vạch mặt thì hắn giở trò lấp liếm. Nếu như Tử Văn là đại diện của chính nghĩa, của lẽ phải, của tinh thần quật cường không chịu khuất phục trước uy quyền dù chàng chỉ là một hàn sĩ áo vải thì viên tướng giặc họ Thôi là điểm hội tụ bản chất xấu xa của kẻ xâm lược.

Mặc dù truyện được viết từ thế kỉ XVI, khi văn xuôi tự sự Việt Nam chưa có nhiều thành tựu đáng kể, nhưng nhân vật của truyện đã được xây dựng với những nét tính cách nhất quán và trở thành những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu cho những loại người khác nhau. Qua hai nhân vật này tác giả đã thể hiện tư tưởng yêu nước sâu sắc: ca ngợi tinh thần yêu chính nghĩa của con người Việt Nam, vạch trần và phê phán bản chất xấu xa của bọn cướp nước. Người chính trực dù chết vẫn chính trực, kẻ tiểu nhân khi về cõi âm vẫn xảo trá đê tiện.

Đặc điểm nổi bật của truyện truyền kì là ẩn đằng sau những yếu tố kì ảo hoang đường, những yếu tố phi hiện thực là cái nhìn, quan điểm, thái độ của nhà văn về hiện thực. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên tuy chủ yếu nói về chuyện thần thánh ma quỷ đầy vẻ hoang đường nhưng lại thể hiện những nội dung hiện thực rất rõ ràng.

Nội dung hiện thực được thể hiện ở lai lịch của nhân vật, bối cảnh thời gian và không gian của câu chuyện. Chính những yếu tố này làm tăng sức thuyết phục cho câu chuyện, khiến cho câu chuyện đáng tin hơn. Ngô Tử Văn có tên tuổi, quê quán rõ ràng. Thời gian, tình tiết câu chuyện cũng rất cụ thể, “Năm Giáp Ngọ, có người ở thành Đông Quan…” đã trông thấy Tử Văn ngồi trên xe quan phán sự và “đến nay con cháu Tử Văn hãy còn, người ta truyền rằng đó là “nhà quan phán sự””.

Lai lịch của viên Thổ quan và tên tướng giặc họ Thôi cũng gắn với những yếu tố thực của lịch sử. Thổ công là người “làm chức Ngự sử đại phu từ đời vua Lí Nam Đế, vì chết về việc cần vương mà được phong ở đây…”, còn tên tướng giặc họ Thôi là “viên tướng bại trận của Bắc triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc”, là viên bộ tướng của Mộc Thạnh…

Sử dụng xen kẽ các yếu tố hiện thực và các yếu tố hư cấu một cách tự nhiên với giọng kể khách quan đã tạo nên sức hấp dẫn rất riêng của truyện truyền kì, đồng thời làm toát lên giá trị hiện thực của tác phẩm.

Nguyễn Dữ viết Truyền kì mạn lục vào khoảng thế kỉ XVI, thời điểm không mấy sáng sủa của hiện thực Việt Nam. Nhà Lê suy tàn, chính quyền rơi vào tay nhà Mạc nhưng cũng chẳng được bao lâu, nội chiến liên miên, xã hội xảy ra rất nhiều vấn đề. Và bóng dáng của xã hội ấy đã được thể hiện trong một số lời đối thoại của nhân vật. Đoạn đối thoại giữa viên Thổ công với Tử Văn: “sao ngài không kiện… lại đi khinh bỏ chức vị, làm một người áo vải nhà quê?”. Thế kỉ XVI, đã có rất nhiều người có tài, có nhân cách, bất lực trước hiện thực mà chọn cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã, trong đó có Nguyễn Dữ.

Câu trả lời của viên Thổ quan không phải không có yếu tố hiện thực. “Trần sao âm vậy”, cõi âm trong tác phẩm là cõi dương thời ấy: “Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở: Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả…”. Chỉ một chi tiết nhỏ, tác giả đã phê phán được thói đời, những kẻ có chức, có quyền cấu kết với nhau để hại dân lành, người hiền.

Lời nói của Diêm Vương cũng ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc, vừa vạch trần sự dối trá của những kẻ cầm cân nảy mực, vừa thể hiện thái độ đối với giặc xâm lược: “Lũ các ngươi chia toà sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên vị, phạt thì đích xác mà không nghiệt ngã, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời nhà Hán, nhà Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn nói sao xiết được!”.

Những chi tiết nhỏ tưởng như vô tình đan cài vào câu chuyện nhưng lại chứa đựng giá trị hiện thực rất quan trọng. Đó chính là sự khéo léo và công phu của người kể chuyện. Sức hấp dẫn của câu chuyện còn được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng cốt truyện đầy kịch tính. Những tình tiết của truyện được dẫn dắt khéo léo và tạo nên nhiều bất ngờ thú vị. Nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ đối thoại, phát triển tình tiết… đều thể hiện một trình độ kể chuyện rất hiện đại, khéo léo, vượt xa trình độ văn xuôi trung đại.

Chủ đề nổi bật của truyện vẫn là ca ngợi sự chính trực ngay thẳng. Ngô Tử Văn là tấm gương tiêu biểu cho những người trí thức nước Việt khảng khái, cương trực, dũng cảm chống lại cái ác để trừ hại cho dân. Sự chiến thắng của Tử Văn là sự chiến thắng của lẽ phải, của công lí, thể hiện niềm tin của nhân dân lao động vào lẽ phải. Ngô Tử Văn tuy không được sống lâu nhưng đã bất tử cùng với câu chuyện, đã để lại tiếng thơm muôn đời và trở thành quan phán sự ngự ở đền Tản Viên.

Chủ đề ấy còn được thể hiện rõ ở lời bình cuối truyện. Người kể chuyện muốn khẳng định rằng, người chính trực như Ngô Tử Văn mới xứng đáng là người cầm cân nảy mực. Đó cũng là ước muốn chung của nhân dân trong thời buổi xã hội đầy những chuyện ngang tai trái mắt. Bên cạnh đó, tác phẩm còn chĩa mũi nhọn phê phán vào bọn xâm lược và vạch trần mặt trái của xã hội.

Giá trị của Truyền kì mạn lục là ở nội dung hiện thực sâu sắc và cảm hứng ca ngợi những giá trị đạo đức truyền thống. Những con người có bản tính tốt đẹp như Vũ Thị Thiết, như Ngô Tử Văn đều được trở về sống ở thế giới thần thánh, họ đã được thưởng xứng đáng cho phẩm cách tốt đẹp của mình. Tập truyện đã thể hiện một niềm tin mãnh liệt của nhân dân lao động xưa, niềm tin vào chân lí bất diệt của sự sống “ở hiền gặp lành”.

Bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 6

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên là một trong những truyện xuất sắc nhất trong tập Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Sự thành công của tác phẩm không chỉ đến ở nội dung phong phú, hấp dẫn, giá trị nhiều mặt mà còn ở những yếu tố nghệ thuật đặc sắc.

Nét nghệ thuật đầu tiên của truyện chính là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố hiện thực và kì ảo. Để tạo ra tính chân thật cho tác phẩm tác giả đã giới thiệu nhân vật và sự việc cụ thể, ngay cả thời gian và địa điểm cũng đưa ra một cách chính xác: “Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang” “Năm giáp Ngọ, có người ở thành Đông Quan vốn quen biết với Tử Văn, một buổi sớm đi ra ngoài cửa tây vài dặm,….”. Những yếu tố hiện thực này sẽ khiến cho câu chuyện trở nên chân thực, tạo lòng tin nơi người đọc.

Nhưng để tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện, tác giả đã có sự đan xen, kết hợp hết sức hài hòa với những yếu tố kì ảo. Theo bước chân của nhân vật chính Ngô Tử Văn người đọc được gặp hồn ma của tên Bách hộ họ Thôi để thấy được sự xảo trá của hắn, đe dọa hòng làm Ngô Tử Văn lung lay ý chí. Không chỉ vậy, người đọc còn được xuống cõi âm ti âm u, tăm tối, cây cầu dài hơn nghìn thước được bắc qua một con sông lớn mà “gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương”. Cả một thế giới ma quỷ mà ta thường chỉ biết đến qua tưởng tượng hiện ra trước mắt người đọc: “mấy vạn quỷ Dạ Xoa đều mắt xanh, tóc đỏ, hình dáng nanh ác”; cung điện của Diêm Vương thăm thẳm với những bóng quỷ, hồn ma. Thế giới huyền ảo được miêu tả hết sức chi tiết, sinh động, làm ai nấy đọc cũng không khỏi rùng mình, sợ hãi. Hai yếu tố hiện thực và kì ảo đan cài với nhau trong đó yếu tố kì ảo là nghệ thuật giúp cho câu chuyện thêm phần sinh động, hấp dẫn. Đồng thời cũng phản ánh đúng tinh thần chung của Nguyễn Dữ trong cuốn Truyền kì mạn lục là lấy cái “gì” để nói cái “thực”.

Kết cấu của truyện cũng là một nét đặc sắc không thể không nhắc đến. Truyện có kết cấu li kì, nhiều chi tiết vô cùng hấp dẫn. Kết cấu tác phẩm như một màn xung đột kịch, có mở đầu, có thắt nút, cao trào và có kết thúc. Lớp lang các phần gắn bó với nhau hết sức chặt chẽ, đỉnh điểm là sự kiện khi Diêm Vương phán xét tội lỗi của Tử Văn khi chỉ nghe câu chuyện từ một phía, nhưng ngay sau đó, tình thế căng thẳng đã được giải quyết, Tử Văn trình bày sự việc và được Diêm Vương cử người đi điều tra. Tên Bách hộ họ Thôi gian dối đã bị vạch trần bộ mặt gian xảo, độc ác và bị trừng trị thích đáng. Còn về phần Tử Văn cũng nhận được phần thưởng xứng đáng cho tính cách bộc trực, thẳng thắn ghét tà gian của mình. Kết thúc theo lối có hậu là kết thúc phố biến trong truyện truyền thống.

Tính cách các nhân vật cũng được chú trọng xây dựng, họ có tính cách vô cùng sinh động, mỗi nhân vật thường đại diện cho một kiểu người trong xã hội. Tử Văn mang trong mình những phẩm chất đẹp đẽ của một bậc quân tử: cương trực, thẳng thắn, không chấp nhận sự phi nghĩa hoành hành, dám làm dám chịu. Tính cách của Ngô Tử Văn tiêu biểu cho kiểu nhân vật chính nghĩa, hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp của con người. Để làm nổi bật tính cách của nhân vật, Nguyễn Dữ đã lựa chọn tình huống hết sức tiêu biểu: Tử Văn đốt đền tên Bách hộ họ Thôi vì hắn nhũng nhiễu trong nhân gian, làm cuộc sống người dân cực khổ. Hành động này đối với những người khác là vô cùng liều lĩnh bởi vậy ai cũng lắc đầu sợ hãi, riêng Tử Văn “vẫn vung tay không cần gì cả” điều đó cho thấy thái độ dứt khoát và quả cảm của Ngô Tử Văn. Hành động của Tử Văn không phải là một sự liều lĩnh, bột phát mà đã có sự chuẩn bị từ trước, trước khi đốt đền Tử Văn đã “tắm gội sạch sẽ, khấn trời, rồi châm lửa đốt đền”, Tử Văn ý thức được hành động của mình là chính nghĩa nên chàng không hề sợ hãi. Khi gặp tên tướng giặc, bị hồn ma hắn thị uy, dọa nạt, Tử Văn “vẫn cứ ngồi ngất ngưởng, tự nhiên” không nao núng tinh thần. Đứng trước Diêm Vương, bị Diêm Vương quát mắng, Tử Văn vẫn vô cùng bản lĩnh, tự tin trình bày vấn đề “lời rất cứng cỏi, không chịu nhún nhường chút nào”. Toàn bộ ngôn ngữ, hành động thống nhất với nhau chặt chẽ để minh chứng cho nhận định ban đầu của Nguyễn Dữ khi giới thiệu về nhân vật: “Chàng vốn khẳng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực”.

Ngoài ra, để tạo sức hấp dẫn cho tác phẩm còn phải kể đến ngôn ngữ nhân vật. Mặc dù ngôn ngữ trong tác phẩm không được xây dựng quá nhiều nhưng nó cũng đã phần nào giúp khắc họa tính cách nhân vật. Ví dụ như nhân vật Ngô Tử Văn cương trực thẳng thắn thì ngôn ngữ sẽ: “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng”. Ngô Tử Văn nói ngay sau khi bị bọn quỷ Dạ Xoa đến bắt đi, không gian vô cùng lạnh lẽo, sợ hãi, nếu là người bình thường có lẽ đã không đủ can đảm để nói bất cứ điều gì. Riêng Tử Văn vẫn bình tĩnh kêu oan, lời nói đó cho thấy sự bình tĩnh và tinh thần quyết đấu tranh cho lẽ phải của Tử Văn.

Các yếu tố nghệ thuật trên đã được Nguyễn Dữ kết hợp một cách hài hòa, nhuần nhuyễn làm nổi bật giá trị nội dung của tác phẩm. Qua đây ta cũng có thể thấy được tài năng bậc thầy của Nguyễn Dữ trong nghệ thuật dựng truyện nói chung.

Bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 7

Truyện ngắn Nguyễn Dữ luôn mang đến những ý nghĩa sâu sắc cho cuộc sống của con người. Các tác phẩm của ông cho đến nay vẫn nguyên giá trị, truyện của Nguyên Dữ không chỉ có giá trị về mặt nội dung mà còn có giá trị về mặt nghệ thuật. Tiêu biểu trong tập truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là tác phẩm Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên. Có thể nói tác phẩm này là một truyện đặc sắc.

Trước hết tác phẩm đặc sắc ở mặt nội dung, Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên đã xây dựng được những nhân vật đại diện cho những kiểu người có trong xã hội thực tế của con người.

Thứ nhất là nhân vật chính Ngô Tử Văn, chàng là một nho sĩ yêu cái thiện diệt cái ác. Chàng đại diện cho nhân loại, cho con người luôn khát khao đấu tranh bảo vệ cái thiện, cái chính nghĩa cái công lý, sự thật ở đời. Vốn là người không chịu được những điều sai trái cho nên khi thấy thần miếu hoành hành nhũng nhiễu nhân dân cho nên chàng quyết định đốt đền mặc dù biết điều đó có thể khiến chàng mất mạng. Kể cả khi có hiện tượng chàng có thể chết bất cứ lúc nào, đối diện với tên giặc phương Bắc và trước những lời đe dọa của hắn chàng vẫn quả quyết không xây lại đền.

Và cho đến khi hồn chàng xuống âm phủ, đối diện với hình phạt vì tội được cho là rất nặng, chàng cũng không hề nhún bước. Chàng tìm ra sự thật và giúp cho người có công với đất nước lấy lại được đền, tên giặc phương bắc bị đày xuống ngục cửu u còn mình thì thành một phán sự ở đền Tản Viên. Hành trình Tử Văn bảo vệ lẽ đúng là hành trình con người bảo vệ công lí, chính nghĩa. Không những thế Tử Văn còn đại diện cho kiểu người anh hùng, hi sinh vì lẽ lớn trong cuộc đời. Đời ai cũng phải chết cốt là để lại được tiếng về sau.

Thứ hai nhân vật họ Lôi và những tên quan ăn hối lộ đại diện cho những thế lực xấu và những tên quan tham trong xã hội. Chúng không những ăn cướp mà chúng còn la làng đã thế lại đồng lõa khiến cho thế lực của chúng quá to lớn. Chính vì thế mà người có công cho đất nước như ông lão nọ mà không thể nào đấu lại chúng được. Ông chỉ có một mình mà chúng thì lại quá đông, ông chỉ còn biết ngồi trông chờ thời cơ đến. Trong cuộc sống của chúng ta cũng vậy, cái ác thường rất lớn, để sống thiện sống đẹp thì khó còn để sống ác thì lại rất nhanh, nó bắt đầu bằng những thói xấu và nó trở thành kẻ chế ngự con người. Vì thế đấu tranh lại nó rất gian nan và đòi hỏi con người phải kiên trì, phải dũng cảm.

Truyện không chỉ đặc sắc về nội dung mà nó còn đặc sắc về mặt nghệ thuật. Yếu tố kì ảo là nét đặc sắc nghệ thuật trong thiên truyện này. Tử Văn vốn là người trần mắt thịt mà có thể chiến đấu lại với hồn ma của tên giặc kia hay chết đi hai ngày rồi mà vẫn còn có thể sống lại. Tác giả sử dụng nghệ thuật kì ảo để làm tăng thêm sự huyền ảo, truyền thuyết cho câu chuyện. Đồng thời thể hiện được vị trí của con người trong vũ trụ và đời sống tâm linh con người Việt xưa.

Như vậy có thể khẳng định rằng tác phẩm Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên là một tác phẩm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn đặc sắc về nghệ thuật. Nguyễn Dữ đã kế thừa nét nghệ thuật kì ảo của truyền thuyết dân gian để làm nên tác phẩm của mình. Nó góp phần làm tăng hiệu quả truyền đạt nội dung đến người đọc.

Bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 8

Văn học trung đại là một bộ phận không thể thiếu trong dòng chảy văn học Việt Nam. Với những nét đặc sắc riêng, văn học trung đại khắc họa xã hội Việt Nam xưa một cách rõ nét qua những bài thơ, những câu chuyện kể. Trong đó, Nguyễn Dữ là một tác giả tiêu biểu, được biết đến qua tác phẩm Truyền kì mạn lục. Trong số 20 câu chuyện trong tác phẩm này, sẽ thật thiếu sót nếu không nhắc đến Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.

Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là tác phẩm viết bằng chữ Hán gồm 20 truyện, ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI. Lục là sách, mạn là ghi chép tản mạn, truyền kì là chuyện lạ kì lưu truyền trong dân gian. Truyền kì mạn lục là sách ghi chép lại những mẩu chuyện lạ trong dân gian. Tác phẩm thực sự là một sáng tác văn học với sự gia công, hư cấu, sáng tạo, trau chuốt, gọt giũa của Nguyễn Dữ chứ không phải chỉ là một công trình ghi chép đơn thuần.

Trong Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Dữ viết về các nhân vật, các sự việc kỳ lạ xảy ra thời Lý, Trần, Hồ và thời Lê sơ. Bằng trí tưởng tượng phong phú và bằng một bút pháp linh hoạt, tác giả Truyền kỳ mạn lục đưa người đọc vào một thế giới huyền bí vừa có người, vừa có thần, vừa hư, vừa thật nhưng xuyên qua các lớp mù linh ảo, ly kỳ được thêu dệt ra một cách tài giỏi ấy vẫn hiện rõ một thế giới thật của cuộc đời mà ở đó nhan nhản những kẻ có quyền thế độc ác, đồi bại.

Tuy nhiên, bên cạnh sự tung hoành của cái xấu cái ác, tác giả Truyền kỳ mạn lục vẫn nhìn thấy những phẩm cách lương thiện, trung thực, những tâm hồn thanh cao, những tình người tình yêu của nhân dân, của cái thiện vĩnh hằng và Nguyễn Dữ đã mô tả nó thật đẹp đẽ, mỹ lệ. Trong số đó có tác phẩm Chuyện chức phán sự đền Tản Viên đã đề cao tinh thần khẳng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn; đồng thời thể hiện niềm tin công lí, chính nghĩa nhất định sẽ chiến thắng gian tà.

Tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” là câu chuyện kể xoay quanh nhân vật Ngô Tử Văn - một người tri thức trong xã hội xưa. Mở đầu tác phẩm chính là lời giới thiệu ngắn gọn nhưng đầy khái quát của tác giả về nhân vật này. Theo lời giới thiệu của tác giả “Ngô Tử Văn tên thật là Soạn”, quê quán của Văn chính là ở “huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang”. Đồng thời, trong lời giới thiệu của mình, tác giả cũng đã cho người đọc thấy được tính cách của nhân vật, đó là một con người cương trực, “khảng khái, nóng nảy, thấy sự gian tà thì không thể chịu được”. Như vậy, có thể thấy, trong phần mở đầu của tác phẩm, tác giả đã giới thiệu rất ngắn gọn, cụ thể, rõ ràng tên tuổi, quê quán và tính cách của nhân vật Ngô Tử Văn. Lời giới thiệu trực tiếp, ngắn gọn, súc tích của tác giả vừa là sự khẳng định gây chú ý cho người đọc, lại vừa thể hiện sự ngợi khen, ngợi ca trước tính cách, phẩm chất của Ngô Tử Văn, định hướng cách nhìn nhận cho người đọc về hành động có phần ngang ngược của chàng sau này.

Trong phần tiếp theo của tác phẩm, tác giả đã tập trung làm bật nổi tính cách của nhân vật và trước hơn hết thể hiện qua hành động đốt đền tà. Hành động đốt đền đã khẳng định rõ được những tính cách trên. Khi tên tướng giặc họ Thôi kia đánh bại Thổ công của ngôi đền và chiếm giữ ngôi đền, hắn đã đút lót những thần miếu bên cạnh, bịt miệng họ để hắn có thể tác oai, tác quái ở ngôi làng của Ngô Tử Văn, mọi người trong làng không dám chống cự họ đành để cho tên giặc kia hoành hành phá phách. Bởi vậy, Ngô Tử Văn quyết định đốt đền tên tướng giặc ấy.

Hành động đốt đền của chàng đã diễn ra thật trang trọng và đầy quyết liệt “chàng tắm gội, khẩn trời rồi châm lửa đốt đền”. Có thể thấy, hành động đốt đền của Ngô Tử Văn không phải là hành động mang tính chất tự phát mà đó là hành động làm theo lẽ phải, phù hợp với suy nghĩ, với thế giới tâm linh của người Việt. Ngọn lửa được Ngô Tử Văn châm lên để đốt đền chính là ngọn lửa lí tưởng cao đẹp của người trí thức, ngọn lửa của chính nghĩa, của lòng căm hờn và chính ngọn lửa ấy đã thiêu rụi, đã đốt cháy cái ác, cái xấu xa, thắp lên tinh thần đấu tranh để bảo vệ lẽ phải. Ngô Tử Văn đã đốt đền, diệt đi cái ác, cái xấu, làm hại đến nhân dân, đó là một hành động cương trực, nghĩa khí và qua đó cho thấy Ngô Tử Văn là người cương trực, yêu chính nghĩa.

Những tưởng đốt xong là hết, nhưng không, “đốt xong về nhà, chàng thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét”. Trong cơn mơ màng, chàng gặp một người “khôi ngô dõng dạc, đầu đội mũ trụ đi đến, nói năng, quần áo, rất giống người phương Bắc, tự xưng là cư sĩ”.

Kẻ giống cư sĩ kia, tưởng rằng nói năng phải kính trên nhường dưới, biết trước biết sau thế nhưng lời nói lại chẳng giống như vẻ bề ngoài, hắn nói năng với đầy lời mắng mỏ, đe dọa, đòi Tử Văn phải trả lại đền “biết điều thì dựng trả tòa đền như cũ”, “Phong Đô không xa xôi gì, ta tuy hèn, há lại không đem nổi nhà ngươi đến đấy. Không nghe lời ta thì rồi sẽ biết”. Hồn ma tên tướng giặc kia ngoại hình thì sáng lạn, nói lời đầy đạo lý nhưng thực chất lại là một kẻ ranh ma, xảo quyệt, tham lam, độc ác, xảo trá.

Trước lời đe dọa của hắn, Ngô Tử Văn vẫn “mặc kệ, vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên”. Tác giả đã để cho nhân vật im lặng như một cách để nhân vật tự kiểm chứng lại hành động của mình nhưng đồng thời qua đó cũng để cho hồn ma tướng giặc tự diễn biến, thể hiện được bộ mặt, bản chất của chính mình. Khi gặp Thổ thần đất Việt, trái ngược hoàn toàn với lúc đối mặt với hồn ma tướng giặc, Ngô Tử Văn nói năng linh hoạt và rất cởi mở. Ngô Tử Văn đã hỏi Thổ thần rất nhiều điều và chính trong cuộc trò chuyện ấy với Thổ thần, Thổ thần đã kể cho Ngô Tử Văn toàn bộ câu chuyện mình đã bị hại, sự xảo trá của hồn ma tướng giặc và đồng thời cũng chỉ cho Tử Văn cách để đối phó lại với hồn ma. Như vậy, có thể thấy, Ngô Tử Văn trong màn đối chất đã thể hiện được bản lĩnh, tinh thần chủ động, sự tự tin của mình.

Sau lần gặp gỡ với hồn ma và Thổ thần trong cơn sốt, về đêm, bệnh tình của Tử Văn ngày càng nặng thêm và rồi chàng bị hai con quỷ dẫn xuống âm phủ. Minh ty dưới địa ngục là một nơi đáng sợ tới ghê rợn, ai bước xuống cũng không khỏi khiếp hoảng khi “gió tanh sóng xám, hơi lạnh thấu xương”, “hai bên tả hữu cầu, có đến mấy vạn quỷ Dạ Xoa, đều mắt xanh tóc đỏ hình dáng nanh ác”. Thế nhưng, Tử Văn đâu phải người thường, đến đền chàng còn dám đốt, vậy nên những nơi như thế chẳng làm chàng khiếp sợ mà còn khiến chàng cứng cỏi hơn bội phần. Chàng không hề nao núng mà kêu to, bày tỏ sự oan uổng của mình để được vời vào điện mà đối chất với tên tướng giặc và Diêm vương. Ngô Tử Văn đã cương trực kêu oan “Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian, có tội lỗi gì xin bảo cho, không nên bắt phải chết một cách oan uổng”, đồng thời chàng cũng đã giữ thái độ bình tĩnh, tâu lại đầu đuôi câu chuyện như lời Thổ công đã căn dặn chàng. Có thể thấy, màn xử kiện đã diễn ra vô cùng gay go, quyết liệt, “hai bên cãi cọ nhau mãi vẫn chưa phân phải trái”. Đến cuối cùng, Ngô Tử Văn đã đưa ra bằng chứng “tư giấy ở đền Tản Viên” và chàng cũng cam kết nếu những lời mình nói không đúng với sự thật thì sẽ chịu thêm tội nói càn. Trước những lí lẽ, bằng chứng mà Ngô Tử Văn đã đưa ra, cuối cùng, phần thắng của buổi xử kiện đã thuộc về chàng.

Cuộc tranh đấu dưới Minh ty đã bộc lộ được khí phách của một kẻ sĩ, với sự can đảm, cứng cỏi và thông minh đã buộc tên tướng giặc xảo trá phải nhận hình phạt thích đáng cho tội lỗi của mình. Với những chi tiết li kì, huyền ảo, Nguyễn Dữ đã lồng vào câu chuyện mơ ước ngàn đời của nhân dân ta, đó là có được công bằng trong xã hội.

Câu chuyện khép lại khi Thổ thần trở lại cảm ơn Tử Văn vì sự giúp đỡ của chàng. Để trả ơn chàng, ông đã xin với Đức Thánh Tản cho chàng được nhận chức phán sự tại đền. Tử Văn đã vui vẻ nhận lời rồi “thu xếp việc nhà rồi không bệnh mà mất”. Đây là một món quà, một phần thưởng to lớn cho hành động trượng nghĩa của chàng, cho sự khẳng khái, cương trực, gan dạ, thông minh của chàng văn sĩ họ Ngô.

Với nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật độc đáo, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn cùng những chi tiết tưởng tượng kì ảo, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên được Nguyễn Dữ viết nên nhằm đề cao tinh thần cương trực, yêu chính nghĩa, luôn sẵn sàng đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu của những người tri thức Việt Nam. Đồng thời, qua đó gửi gắm ước mơ, niềm tin vào công lý của nhân dân.

Bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 9

"Truyền kì mạn lục" là tác phẩm tạo nên tên tuổi của Nguyễn Dữ trong nền văn học Việt Nam mà cụ thể hơn là văn học thời kì trung đại.Tác phẩm này ra đời vào khoảng thời gian nửa đầu thế kỉ XVI, bao gồm 20 truyện được viết bằng chữ Hán.Một trong những truyện tiêu biểu của "Truyền kì mạn lục" là "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên".

Truyền kì là "một thể văn xuôi tự sự thời trung đại phản ánh hiện thực qua những yếu tố kì lạ, hoang đường.Trong truyện truyền kì, thế giới con người và thế giới cõi âm với những thánh thần, ma quỷ có sự tương giao".Đó cũng chính là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn đối với người đọc bao thế hệ.Ẩn đằng sau những chi tiết hoang đường ấy là những vấn đề then chốt của hiện thực, những quan niệm, tư tưởng và thái độ của tác giả."Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" kể về việc kẻ sĩ Ngô Tử Văn đốt đền của viên Bách hộ họ Thôi đã tử trận làm yêu làm quái, gây hại cho dân lành.Hắn đe dọa và kiện Tử Văn ở Minh ti. Được Thổ công mách bảo cách đối phó với tên hung thần ấy nên khi bị giải đi xuống âm phủ Ngô Tử Văn đã vạch trần những tội ác mà hồn viên Bách hộ gây ra. Kẻ ác bị trừng phạt, Ngô Tử Văn được sống lại.Nhờ sự tiến cử của Thổ công mà chàng được nhận một chức phán sự ở đền Tản Viên.Sau đó, Tử Văn "thu xếp việc nhà rồi không bệnh mà mất".

Nhân vật Ngô Tử Văn được Nguyễn Dữ giới thiệu một cách trực tiếp bằng những lời văn ngắn gọn: "Ngô Tử Văn tên là Soạn, người huyện Yên Dũng, đất Lạng Giang. Chàng vốn khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc người ta vẫn khen là một người cương trực".Đó cũng là những lời văn thể hiện thái độ ngợi khen về tính cách, phẩm chất con người Ngô Tử Văn của tác giả.Tức giận vì không thể chịu được sự gian tà nên chàng đã đốt đền của viên Bách hộ họ Thôi đã tử trận "làm yêu làm quái trong dân gian".Trước khi thực hiện hành động này, Tử Văn đã "tắm gội sạch sẽ, khấn trời" rồi châm lửa đốt. Trong khi tất cả mọi người xung quanh đều lo sợ thay cho chàng thì chàng "vẫn vung tay không cần gì cả", không mảy may suy nghĩ đến hậu quả khôn lường. Hành động đốt đền của Tử Văn đã thể hiện sự quyết liệt, dũng cảm, ngay thẳng, chính trực của một kẻ sĩ trong xã hội.Chàng tiêu diệt cái ác vì muốn mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.

Ngỡ tưởng chỉ cần đốt đền là mọi việc xong xuôi nhưng Ngô Tử Văn "thấy trong mình khó chịu, đầu lảo đảo và bụng run run, rồi nổi lên một cơn sốt nóng sốt rét". Chàng thấy hồn ma tướng giặc đến đòi lại đền và nói những lời đe dọa: "Biết điều thì dựng trả ngôi đền như cũ. Nếu không thì, vô cớ hủy đền Lư Sơn, Cố Thiệu sẽ khó lòng tránh khỏi tai vạ".Trước những lời đe dọa ấy, Tử Văn không chút run sợ, "ngồi ngất ngưởng tự nhiên" bởi đấu tranh cho cái thiện chưa bao giờ là việc làm sai trái. Hồn ma viên Bách hộ họ Thôi có ngoại hình cao lớn, khôi ngô, trên đầu đội mũ trụ, nói những lời đạo lý nhưng thực chất lại là một kẻ hung ác, gian xảo. Khi sống, hắn theo Mộc Thạnh sang "lấn cướp" nước ta, đến khi chết đi trở thành hồn ma thì hắn lại chiếm đền của Thổ công làm nơi trú ngụ cho mình. Những lời đạo lí giả dối không thể che giấu đi bản chất xảo trá, bạo tàn của hắn.Ngô Tử Văn tin rằng hành động của mình là đúng, là việc chính nghĩa nên làm để bảo vệ cuộc sống của nhân dân nước Việt.

Nhờ có cuộc gặp gỡ với Thổ công mà Tử Văn thấy rõ được những hành động "hung yêu tác quái", quấy rầy hại dân của hồn ma tướng giặc. Thổ công bày cách giúp Tử Văn "khỏi phải chết một cách oan uổng" khi bị hồn ma kiện ở dưới chốn Minh ti.Chàng bị hai tên quỷ sứ bắt xuống dưới âm phủ. Đó là một không gian đáng sợ đến mức ghê rợn: "gió tanh sông xám, hơi lạnh thấu xương", "mấy vạn quỷ Dạ Xoa đều mắt xanh tóc đỏ, hình dáng nanh ác",...Cảnh tượng ấy không làm cho Tử Văn khiếp sợ, chàng rất cứng cỏi, "không chịu nhún nhường" trước những lời buộc tội của hồn ma tướng giặc. Cuộc cãi cọ của Tử Văn và hồn ma tướng giặc mãi chưa phân phải trái nên Tử Văn đã xin Diêm Vương "đem tư giấy đến đền Tản Viên để hỏi" để xác nhận sự thật, phân xử cho công bằng. Thấy vậy, người đội mũ trụ đã có những lời nói đỡ cho Tử Văn: "Gã kia một kẻ học trò,thật là ngu bướng,quả đáng tội lắm. Nhưng đã trách mắng như vậy, cũng đủ răn đe rồi. Xin đại vương khoan dung tha cho hắn để tỏ cái đức rộng rãi. Chẳng cần đòi hỏi dây dưa.Nếu thẳng tay trị tội nó, sợ hại đến cái đức hiếu sinh".Thoạt đầu người đọc ngỡ tưởng đó là lòng tốt của hồn ma tướng giặc nhưng thực chất đó chỉ là cách mà hắn tự bao biện, bênh vực cho chính mình.

Sau khi Diêm Vương sai người đi chứng thực, sự thật được làm sáng tỏ, tướng giặc bị "lồng sắt chụp vào đầu, khẩu gỗ nhét vào miệng", bỏ vào ngục Cửu U. Ngôi mộ của tên tướng giặc "tự dưng thấy bị bật tung lên, hài cốt tan tành ra như cám vậy". Đó là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ làm điều phi nghĩa, gian tà. Tử Văn về nhà mới biết mình đã chết được hai ngày, một tháng sau đó, chàng nhận chức phán sự ở đền Tản Viên do Thổ công tiến cử rồi "không bệnh mà mất".

"Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" hấp dẫn, lôi cuốn người đọc bởi các chi tiết kì ảo, có sự đan xen các câu chuyện về con người, ma quỷ, chuyện trần gian, địa ngục, chuyện chết đi và sống lại của Ngô Tử Văn,...Chi tiết Diêm Vương xử kiện ở dưới âm phủ đã thể hiện niềm tin của con người vào công lí xã hội. Nếu trên cõi trần gian cái ác có thể hoành hành, không bị trừng trị thì xuống dưới âm phủ mọi tội ác đều bị trừng trị thích đáng. Chi tiết này đã đẩy xung đột truyện lên cao trào để Ngô Tử Văn có cơ hội bộc lộ sự cương trực và bản lĩnh của mình. Đồng thời cũng có ý nghĩa giáo dục ý thức sống và hành động của con người, con người hãy sống hướng thiện, làm theo lẽ phải bởi "ở hiền gặp lành", "ác giả ác báo".

"Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" của Nguyễn Dữ đã ngợi ca sự cương trực, khảng khái và bản lĩnh chống lại cái ác, bảo vệ lẽ phải của Ngô Tử Văn. Chàng là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp trí thức của nước ta lúc bấy giờ dũng cảm đấu tranh với cái ác. Bên cạnh đó, truyện cũng thể hiện niềm tin tưởng của tác giả Nguyễn Dữ vào công lí và chính nghĩa trong xã hội. Đó là lí do mà "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên" vẫn còn vẹn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.

Bài văn nghị luận về tác phẩm truyện Tản Viên từ Phán sự lục - mẫu 10

Nguyễn Dữ là một nho sĩ thời Lê Sơ ông nổi tiếng với tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục” ngoài ra ông còn có rất nhiều tác phẩm hay tiêu biểu khác, những sáng tác của ông đã đóng góp rất nhiều cho nền văn học nước nhà.

Tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” cũng giống như bao nhiêu chuyện khác của “Truyền kỳ mạn lục” đều mang yếu tố huyền bí, hư ảo. Chính điều đó tạo ra sự hấp dẫn của chuyện và làm cho câu chuyện trở nên có tính lôgic.

Khi phân tích tác phẩm Chuyện chức phán sự đề Tản Viên người đọc thường quan tâm tới yếu tố kỳ ảo, huyền bí. Bởi câu chuyện mang nhiều yếu tố được tạo ra do trí tưởng tượng của con người là chủ yếu.

Câu chuyện xoay quanh một tên tướng giặc bị chết sau khi chết hắn biến thành con ma tác oai tác quái trong nhân gian. Sau khi đốt đền thờ hắn hiện lên và dọa dẫm Tử Văn. Rồi sau khi thần thổ công tới gặp nhân vật Tử Văn anh ta liền lăn ra ốm một thời gian sau thì chết. Sau khi chết hồn Tử Văn bị đưa tới âm phủ và tại đây hồn Tử Văn đã gặp được Diêm Vương. Sau khi chết được hai ngày thì phần xác của Tử Văn lại tự dưng sống lại nhưng do hồn anh đã bị giải xuống Diêm Vương nên anh sống mà bị mất hồn. Còn phần hồn sau khi được Diêm Vương phán xử đã được nhận chức “Phán sự đề Tản Viên”.

Chính yếu tố hoang đường, thần bí xen kẽ với những yếu tố hiện thực tạo thành chuyện vô cùng hấp dẫn người đọc, nhiều tình tiết kỳ thú, đan xen đã tạo nên cốt cách riêng của thể truyền kỳ. Cũng chính nhờ yếu tố hoang tưởng, hư cấu làm cho nhà văn có thể thoải mái phát huy tính tưởng tượng cũng như đòi hỏi sự công bằng mà trong đời sống hiện thực không làm được. Thông qua câu chuyện ta có thể thấy được thái độ quan điểm sống của nhà văn trong thời kỳ mà Nguyễn Dữ sống.

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ tập trung vào cuộc đối đầu giữa một bên là anh chàng có tên Ngô Tử Văn vốn là người vô cùng thẳng tính, bộc trực, nóng nảy nên khi thấy điều gì gian ác, là không thể chịu được. Với một bên là hồn ma của một tên tướng giặc bị bại trận và giết chết nhưng do tâm tính của hắn quá tà ác nên sau khi chết hắn hóa thành yêu tinh, yêu quái nhũng nhiễu dân lành và quấy phá Ngô Tử Văn . Thực chất đây chính là cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa phe chính nghĩa và phe tà ác.

Thể hiện quan niệm sống, tư tưởng nhân văn của tác giả Nguyễn Dữ là người luôn hướng tới điều thiện và mong muốn cho cái thiện sẽ thắng cái ác trong xã hội hiện thực.

Trong câu chuyện nhân vật của Ngô Tử Văn vô cùng đơn độc trong cuộc chiến chống lại cái xấu cái ác nhưng anh ta không hề nao núng. Trong hoàn cảnh nào anh ta cũng thể hiện niềm tin, tính khẳng khái của mình. Ngô Tử Văn là đại diện cho những người trí thức, trung thực, khẳng khái, luôn một lòng muốn xã hội được công bằng, giải quyết những oan khuất cho con người trong giai đoạn mà ông sống.

Trong những câu văn của mình Nguyễn Dữ đã dành nhiều sự ưu ái cho nhân vật Ngô Tử Văn điều này thể hiện quan niệm sống, sự đồng tình mạnh mẽ của ông trong cuộc chiến chống lại cái xấu, cái ác. Ông tin cái thiện luôn chiến thắng cái ác, sự chiến thắng của nhân vật Ngô Tử Văn thể hiện niềm tin của tác giả Nguyễn Dữ.

Đồng thời thể hiện khát vọng giành công lý, công bằng cho nhân dân của một con người có học thức, có tấm lòng nhân hậu. Còn tên tướng giặc đại diện cho quân xâm lược, đại diện cho cái ác. Sau khi chết hắn còn tác quái nhưng vẫn bị cái tốt, bị Ngô Tử Văn tiêu diệt thể hiện chân lý không dung tha cho những kẻ bất lương, không có tính người. Đồng thời qua đây tác giả Nguyễn Dữ muốn tố cáo xã hội, kêu gọi con người đoàn kết chống lại cái xấu tạo một xã hội công bằng, chính nghĩa.

Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 11 hay khác: