SBT Ngữ văn 9 Cánh diều Phò giá về kinh
Haylamdo biên soạn và sưu tầm lời giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Phò giá về kinh trang 9, 10 sách Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh lớp 9 dễ dàng làm bài tập trong SBT Văn 9.
Giải SBT Ngữ văn 9 Cánh diều Phò giá về kinh
Trả lời:
– Hoàn cảnh ra đời bài thơ Phò giá về kinh
+ Bài thơ Phò giá về kinh là một tuyệt tác được Trần Quang Khải viết sau ngày đại thắng lần thứ hai của dân tộc, đánh đuổi toàn bộ đội quân xâm lược Mông - Nguyên ra khỏi bờ cõi đất nước, đem lại nền thái bình cho Đại Việt.
+ Tác phẩm được hoàn thành sau ngày mùng 9 tháng Bảy năm 1285, thời gian này, Trần Quang Khải được lệnh hộ giá hai vua Trần (Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và Hoàng đế Trần Nhân Tông) trở lại Thăng Long, khi kinh thành đã sạch bóng quân thù, sau chiến thắng Hàm Tử và Chương Dương. Đây là hai chiến dịch quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ cục diện cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai, trong đó, chiến dịch Chương Dương do Trần Quang Khải trực tiếp chỉ huy.
– Hào khí thời Trần:
+ Từ bối cảnh ra đời của bài thơ có thể thấy được hào khí thời Trần, được gọi là hào khí Đông A, hun đúc từ ý chí quyết tâm của cả dân tộc, từ các bậc vua, quý tộc, quan lại, quân đội cho đến người dân đồng lòng đứng lên bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc, không chịu làm nô lệ trước kẻ thù hung hãn. Quân sĩ trổ trên cánh tay hai chữ “Sát Thát” (giết giặc Nguyên) với tinh thần sẵn sàng hi sinh vì độc lập, tự do của dân tộc.
+ Bài thơ mở đầu bằng hai chiến công oanh liệt với khí thế ngút trời của quân dân Đại Việt. Điều này đánh dấu việc quân ta chuyển từ thế bị động phải rút chạy khỏi kinh đô Thăng Long (hai vua Trần bị kẻ thù vây bắt, nhiều lần nguy kịch tưởng rơi vào tay giặc) sang thế chủ động tấn công và chiến thắng. Nay hai vua quân chiến thắng trở về với tư cách chủ nhân của đất nước, với tư thế của người chiến thắng đội quân xâm lược hung bạo nhất thời đại lúc bấy giờ. Đất nước sạch bóng thù, bước vào một thời kì mới với khí thế hào hùng.
Hào khí thời Trần (hào khí Đông A) được đúc kết từ trí tuệ, từ lòng tự tôn, tự hào dân tộc của Đại Việt.
Câu 2 trang 9 SBT Ngữ Văn 9 Tập 1: Vì sao tác giả bài thơ lại viết “Thái bình tu trí lực”.
A. Vì phải cùng nhau mở hội ăn mừng chiến thắng oanh liệt trước kẻ thù hung bạo
B. Vì hoà bình rồi thì cố gắng làm giàu cho mình và gia đình, bù đắp thiệt hại do chiến tranh gây ra
C. Vì hoà bình rồi nhưng vẫn phải cùng nhau dốc hết sức lực bảo vệ và xây dựng đất nước hùng mạnh
D. Vì chiến tranh chấm dứt rồi thì nên gắng sức mà hưởng thụ cuộc sống sau bao ngày vất vả, gian lao
Trả lời:
Đáp án C. Vì hoà bình rồi nhưng vẫn phải cùng nhau dốc hết sức lực bảo vệ và xây dựng đất nước hùng mạnh.
Trả lời:
Cách ngắt nhịp của bài thơ ở bản phiên âm:
Đoạt sóc / Chương Dương độ,
Cầm Hồ / Hàm Tử quan.
Thái bình / tu trí lực,
Vạn cổ / thử giang san.
– Tác dụng của nhịp điệu các dòng thơ trong việc thể hiện nội dung bài thơ:
+ Hai dòng đầu bài thơ có nhịp 2/3 với những động từ mạnh như “đoạt” (cướp), “cầm” (bắt) được đưa lên đầu dòng góp phần thể hiện khí thế dồn dập, nhịp điệu quyết liệt của các trận chiến dẫn đến thắng lợi trước quân thù. Nhịp điệu 2/3 là nhịp điệu của bước quân hành.
+ Hai dòng sau vẫn ngắt nhịp 2/3 nhưng với từ “tu” (nên), từ “thử” (ấy, này), âm hưởng bài thơ lắng dịu xuống; nhịp thơ như thể hiện sự trầm tư, suy ngẫm về vận mệnh lâu dài của dân tộc. Nhịp điệu dòng cuối là một điểm nhấn, một sự bình tâm, một lời khẳng định chân lí muôn đời. Người anh hùng trở về từ chiến trận ác liệt đã biết kìm nén cảm xúc hạnh phúc tột độ của chiến thắng oanh liệt trước quân thù để về tương lai lâu dài của đất nước, dân tộc.
Trả lời:
Bài thơ Sông núi nước Nam và Phò giá về kinh đều viết về đề tài yêu nước chống ngoại xâm, khẳng định và bảo vệ nền độc lập dân tộc, mặc dù nội dung biểu hiện có sự khác nhau:
– Bài Sông núi nước Nam được viết nhằm khích lệ tinh thần binh sĩ nước Việt quyết tâm chiến đấu tiêu diệt kẻ thù để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc và cảnh báo sự thất bại tất yếu của kẻ thù xâm lược.
– Bài Phò giá về kinh ca ngợi những chiến công oanh liệt của quân dân ta trước quân Mông – Nguyên và khẳng định trách nhiệm trước việc giữ gìn sự vững bền của xã tắc non sông.
Nội dung hai bài thơ vừa đồng điệu, vừa như kế tiếp nhau về cùng một đề tài yêu nước, chống ngoại xâm.
Phiên âm:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lí thái bình.
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đạo binh.
Dịch nghĩa:
Vận nước như dây mây kết nối,
Trời Nam mở mang nền thái bình.
Ở cung điện dùng đường lối “vô vi”,
(Thì) khắp mọi nơi dứt nạn đao binh.
Dịch thơ:
Vận nước như mây quấn,
Trời Nam mở thái bình.
Vô vi trên điện các
Chốn chốn dứt đao binh.
(Theo bản dịch của Đoàn Thăng, Thơ văn Lý – Trần, tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977)
a) Trình bày hoàn cảnh ra đời của bài thơ Vận nước.
b) Xác định đặc điểm thể loại của bài thơ (số dòng, số chữ, niêm, luật và cách hiệp vần ở bản phiên âm).
c) Trình bày nội dung của hai dòng thơ đầu và hai dòng thơ cuối.
d) Cho biết chủ đề của bài thơ.
e) So sánh bài thơ trên với bài Phò giá về kinh (Trần Quang Khải) để chỉ ra sự tương đồng về nội dung giữa hai tác phẩm.
Trả lời:
a) Hoàn cảnh ra đời của bài thơ Vận nước
– Bài thơ được viết sau khi Lê Hoàn lãnh đạo dân tộc ta chiến thắng oanh liệt quân Tống xâm lược trên sông Như Nguyệt năm 981.
– Dù giặc ngoại xâm bị đánh bại, độc lập, chủ quyền của đất nước đã được vẹn toàn nhưng mối lo về kẻ thù xâm lược luôn luôn thường trực. Nhiệm vụ lớn lao lúc này là phải ổn định lòng dân, đoàn kết cả dân tộc để cùng nhau xây dựng đất nước Đất nước vừa trải qua một cuộc thay đổi lớn. Nhà Đinh do Đinh Bộ Lĩnh lập nên sau khi dẹp loạn 12 sứ quân đã đến lúc suy yếu sau cái chết của Đinh Tiên Hoàng Trước hoạ xâm lược của nhà Tống và việc chia rẽ trong nội bộ triều đình, một số quần thần đã phò tá Lê Hoàn lên làm vua. Đã có một số đại thần như Đinh Điền, Nguyễn Bặc đưa quân chống lại Lê Hoàn tạo nên nguy cơ nội chiến. Nhà vua đứng trước “thù trong, giặc ngoài”, cho dù quân xâm lược đã bị đánh đuổi nhưng nguy cơ chiến tranh (nội chiến, ngoại xâm) vẫn luôn rình rập. Trong điều kiện đó, vua Lê Hoàn đã hỏi Thiền sư Đỗ Pháp Thuận, vị cố vấn của mình: “Vận nước ngắn dài thế nào?”. Đỗ Pháp Thuận đã đáp lại bằng bài thơ trên. Đây là một trong những tác phẩm đầu tiên mở đầu cho nền văn học viết của dân tộc, một nền văn học luôn gắn liền với vận nước.
b) Đặc điểm thể loại của bài thơ ở bản phiên âm:
– Số dòng: 4 dòng; số chữ: mỗi dòng 5 chữ; niêm: các chữ thứ hai của dòng 1 và dòng 4 (tộ, xứ) cùng thanh sắc, các chữ hai của dòng 2 và dòng 3 (thiên, vi) cùng thanh bằng; luật: chữ thứ hai của dòng 1 mang thanh bằng nên bài thơ thuộc luật bằng; cách hiệp vần (các dòng 1 – 3, 2 – 4 mang vần).
Từ đó, có thể thấy, đây là bài thơ Đường luật thất ngôn tứ tuyệt, viết bằng chữ Hán.
c) – Hai dòng thơ đầu nêu lên hoàn cảnh của đất nước khi đó: Thế nước đang được củng cố vững vàng như cây đại thụ bền chặt, xanh tốt. Nền thái bình của dân tộc vừa được thiết lập sau chiến thắng oanh liệt, đầy cam go trước đội quân xâm lược hùng mạnh của nhà Tống.
– Hai dòng thơ cuối: Tác giả vạch ra phương sách, con đường để có thể gìn giữ, bảo vệ vận nước và nền hòa bình đó; chấm dứt chiến tranh xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc; chấm dứt nạn nội chiến lúc nào cũng có thể xảy ra, uy hiếp sự tồn vong của nhà nước non trẻ và nền hoà bình vừa giành được. Đó là thực hiện chính sách “vô vi”, thực hiện nền đức trị, sống thuận theo tự nhiên, theo lẽ phải, tức là thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc, đoàn kết các lực lượng xã hội trên cơ sở lợi ích dân tộc hài hoà với lợi ích của mọi người dân, mọi lực lượng xã hội, xóa bỏ thù hận, cùng nhau xây dựng đất nước phồn vinh, thịnh vượng. Chỉ có như vậy thì mới có thể đưa đất nước bước sang một giai đoạn mới, vận nước mới bền vững lâu dài.
d) Chủ đề của bài thơ: Bài thơ ca ngợi vận nước và nền thái bình vững bền của dân tộc sau chiến thắng oanh liệt trước kẻ thù xâm lược, chỉ ra phương sách để chấm dứt chiến tranh, đoàn kết dân tộc, gìn giữ nền hòa bình muôn thuở cho đất nước.
e) Hai bài thơ đều viết về đề tài yêu nước chống ngoại xâm và vạch ra phương sách xây dựng đất nước phồn vinh, hùng mạnh, mặc dù nội dung biểu hiện có sự khác nhau:
– Bài Quốc tộ được viết sau đại thắng quân Tống xâm lược trên sông Như Nguyệt nhằm đưa ra quyết sách khuyên nhà vua thực hiện chính sách cai trị “vô vi”, thực hiện đại đoàn kết dân tộc để xóa bỏ thù hận, cùng chung tay bảo vệ độc lập, tự do của dân tộc, xây dựng đất nước hùng cường.
– Bài Phò giá về kinh ca ngợi những chiến công oanh liệt của quân dân ta trước quân Mông – Nguyên và khẳng định sự vững bền của xã tắc non sông, cũng như trách nhiệm phải bảo vệ sự bền vững đó.
Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 9 Bài 1: Thơ và thơ song thất lục bát hay khác: