Soạn bài Thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau - Ngắn nhất Soạn văn 10 Cánh diều
Haylamdo biên soạn và sưu tầm soạn bài Thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau Ngữ Văn 10 Cánh diều ngắn gọn nhất nhưng đủ ý hy vọng rằng sẽ giúp các bạn dễ dàng soạn bài môn Ngữ văn 10.
Soạn bài Thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau
1. Định hướng
a) Trước một vấn đề trong cuộc sống, mỗi người có thể có những ý kiến khác nhau do vấn đề phức tạp hoặc do góc nhìn, cách suy nghĩ,... không giống nhau. Thảo luận về một vấn đề còn có những ý kiến khác nhau là cùng chia sẻ, trình bày ý kiến cá nhân về vấn đề được nêu ra; đồng thời, lắng nghe, trao đổi lại với ý kiến của người khác để đi đến hiệu biệt đầy đủ, toàn diện hơn về vấn đề đó.
b) Để tham gia thảo luận về một vấn đề có những ý kiến khác nhau, các em cần:
- Xác định vấn đề thảo luận, người tham gia, thời gian thảo luận.
- Xem xét vấn đề từ nhiều góc nhìn và mối quan hệ khác nhau để tìm ý, lập dàn ý cho bài trình bày.
- Lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác về vấn đề thảo luận.
- Trao đổi và bổ sung, làm rõ thêm ý kiến của bản thân.
- Có thái độ phù hợp, hoà nhã và lịch sự trong khi thảo luận, trao đổi.
2. Thực hành
Bài tập (trang 85 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 – Cánh diều): Lựa chọn một trong hai vấn đề sau (hoặc tự đề xuất vấn đề) và tiến hành cuộc thảo luận:
- Vấn đề 1: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” ("Quan Âm Thị Kính”) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách. Trình bày ý kiến của em về vấn đề này.
- Vấn đề 2: Có người quan niệm không nên lạm dụng kháng sinh, nhưng nhiều người lại cho rằng: khi ốm đau, tốt nhất là dùng kháng sinh cho nhanh khỏi bệnh. Em hãy trình bày ý kiến của mình về hai quan niệm trên.
a) Chuẩn bị
- Xác định đối tượng, nội dung và yêu cầu của cuộc thảo luận
- Đọc lại văn bản “Thị Mầu lên chùa” và tìm hiểu thêm các tiều liệu có liên quan đến vấn đề thảo luận
b) Tìm ý và lập dàn ý
- Tìm ý cho vấn đề cần thảo luận bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi sau:
+ Tán thành hay phản đối ý kiến nào?
+ Vì sao lại tán thành hay phản đối?
+ Những dẫn chứng nào trong đoạn trích giúp làm rõ và thuyết phục mọi người về ý kiến của bản thân
- Lập dàn ý
+ Mở đầu: nêu vấn đề cần thảo luận: Nên đánh giá nhân vật Thị Mầu như thế nào?
+ Nội dung chính: Nêu ý kiến của em về vấn đề thảo luận (VD: không đồng tình với ý kiến thứ nhất, ủng hộ ý kiến thứ hai hoặc có điểm đồng tình, có điểm không đồng tình với cả 2 ý kiến...). Sử dụng lí lẽ và dẫn chứng để thuyết phục mọi người về ý kiến của mình
+ Kết thúc: khẳng định lại ý kiến của em và đề nghị mọi người trao đổi, thảo luận
c) Thực hành nói và nghe Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 1 (trang 37).
* Bài nói mẫu tham khảo:
Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” ("Quan Âm Thị Kính”) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách. Trình bày ý kiến của em về vấn đề này.
Bài làm
Mỗi nhân vật trong một tác phẩm văn học đều mang những vẻ đẹp, cá tính riêng. Tác phẩm đưa ra những ý kiến trái chiều để bạn đọc có thể bàn luận cũng được coi là đã thành công tạo được những ấn tượng, thu hút bạn đọc. Nhân vật Thị Mậu trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” là một người như vậy. Nhận xét về nhân vật, có ý kiến cho rằng: Thị Mầu trong đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách.
Tuy ý kiến trái chiều nhưng đều có những lí lẽ riêng, thể hiện cảm nhận của người đánh giá. Trước hết, hãy cùng thảo luận về ý kiến “Thị Mầu là một người lẳng lơ, xấu tính”. Trước hết, tính cách lẳng lơ của thị được thể hiện qua một vẻ ngoài ấn tượng. Vẻ đẹp ngoại hình của Mầu có sự cộng hưởng của cái yếm thắm trong đó thổn thức bộ ngực con gái thèm khát yêu đương, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, với con mắt sắc như dao cau, với nụ cười tươi nở ra trên đôi môi đỏ mọng, và với cái thân hình uốn éo luôn để lộ những đường cong khêu gợi…Thị Mầu từ kịch bản văn học bước ra sân khấu đã hút hồn người xem bởi chính ánh mắt đong đưa, lúng liếng, lời nói ngọt ngào, sóng sánh như mật, nụ cười môi thắm, răng trắng ngọc ngà mời mọc, năm ngón tay búp măng nõn nà xòe, phẩy quạt, váy áo bay tung, dải thắt lưng xanh phấp phới, quấn quyện ngay trên đầu chú tiểu trẻ đang ngồi gõ mõ, niệm kinh, chịu trận như hóa đá... những bước đi vòng rộng nhún nhẩy, dáng dấp phóng túng bay bướm đầy ắp sinh khí như muốn phá tung mọi ràng buộc của lễ nghi phong kiến. Rõ ràng vẻ bên ngoài của Thị Mầu đã toát lên tính cách, việc làm, tâm tư của Thị. Nguyên tắc đối lập trong xây dựng nhân vật chèo cổ đã làm nổi bật hai hình tượng. Thị Kính – áo nâu sồng, miệng tụng kinh, tay gõ mõ, ngồi bất động, Thị Mầu áo mớ ba mớ bảy sặc sỡ, tay cầm quạt, thoắt gập, thoắt xòe…Thị Kính trần tư bao nhiêu thì Thị Mầu cuồng nhiệt bấy nhiêu. Thị Kính dịu dàng, kín đáo, đoan trang, Thị Mầu lại mạnh mẽ, lẳng lơ, táo bạo. Thị Kính càng né tránh thì Thị Mầu càng lăn xả để thỏa mãn dục tình. Biết Thị Kính là một thầy tu nhưng Thị Mầu vẫn không ngừng tìm cách quyến rũ. Dù Tiểu Kính đã nhiều lần từ chối như Thị Mầu vẫn không bỏ cuộc mà vẫn luôn tìm cách để trò chuyện, liên tục gọi “thầy tiểu ơi” đầy dịu dàng, tha thiết. Từ những hành động trên, có thể thấy rằng Thị Mầu là một người phụ nữ lẳng lơ, xấu tính.
Thế nhưng, nếu nhìn trên phương diện tích cực thì Mầu lại là một cô gái có khát vọng tình yêu cao cả. Thật hiếm người phụ nữ nào trong xã hội xưa có thể bộc lộ tình cảm của mình một cách thẳng thắn như Mầu. Họ thường sẽ im lặng, âm thầm chịu đựng hoặc dịu dàng, ẩn ý trong tình yêu của mình. Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Thị Mầu trong chèo là một tấm gương điển hình về sự phá phách, chống lại những trói buộc của chế độ phong kiến hà khắc, khát khao hướng tới hạnh phúc của người phụ nữ thời bấy giờ. Người phụ nữ này dám bộc lộ hết mình, biết sống, biết khao khát tận hưởng với đời. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu - giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu.Thị cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Mầu ở đây thật mới. Cô chấp nhận, van lơn thứ tình “ở trọ”, “qua đường” và chính trong cái quyết liệt đó đã mai phục sẵn một tâm thế liều lĩnh: “mai sau dù có ra sao cũng đành” sẽ được bùng lên ở những chặng sau trong cuộc đời cô. Sự nổi loạn của Thị Mầu là thách thức xã hội:
“Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên chẳng để sơn son mà thờ”
Thị Mầu đã dám nghĩ, dám yêu, dám bày tỏ và sẵn sàng chấp nhận hậu quả cuối cùng. Đam mê của Thị mang tính bản năng và xuất phát từ trái tim không toan tính vụ lợi, không ràng buộc. Khi bị từ chối, tình yêu càng trở nên mãnh liệt. Không đạt được mong muốn, khát khao của Thị Mầu càng cháy bỏng. Thị Mầu đã đi ngược quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân để tiến đến sát sạt tiểu Kính mà ghẹo, mà quyến rũ bởi Thị Mầu đã say đắm vẻ đẹp của thầy Tiểu và khát khao có được tình yêu của Kính Tâm. Xét ở phương diện yêu thì Thị Mầu đúng là một cô gái hiện đại. Thị đã dám yêu, dám bày tỏ, dám vượt qua lễ giáo của xã hội phong kiến, những mong có được tình yêu của mình. Có bao nhiêu cô gái thời đại ấy đã dám làm thế như Thị Mầu. Đến ngay cả Thúy Kiều, được coi là táo bạo, bị các nhà Nho thời đó cho là “dâm” khi dám “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đi tìm Kim Trọng thì cũng chỉ mới dừng lại ở ranh giới nhất định. Kiều vẫn không dám phá bỏ lễ giáo phong kiến khi nói “Nên chăng là cũng tại lòng mẹ cha” để lúc sa chân vào cuộc đời gió bụi cũng chỉ dám thốt lên một câu tiếc nuối “Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta “tán thưởng” Thị Mầu về cách hành xử trong tình yêu, mà chỉ để thấy rõ hơn lý do lỗi lầm của Thị để tha thứ cho một cô gái mang cái “án lẳng lơ” theo suốt chiều dài văn hóa dân tộc. Lỗi lầm của Thị Mầu là ở chỗ yêu say đắm nhưng không hiểu rằng tình yêu cần phải có từ hai phía. Vì thế, Thị đã biến tình yêu của mình thành sự si mê mù quáng, dẫn đến bi kịch cho mình và người mình yêu.
Thị Mầu là con người của nghệ thuật. Và nghệ thuật dân gian mang hơi thở của cuộc sống. Nên con người của nghệ thuật phải chăng chính là con người của cuộc đời. Và khát vọng của Thị Mầu là của bao cô gái trong xã hội phong kiến.
Tuy có những ý kiến trái chiều về nhân vật nhưng với quan điểm hiện đại ngày nay, có lẽ Thị Mầu không phải là một cô gái “xấu”. Vì vậy, khi đánh giá một nhân vật hay bất cứ con người nào, chúng ta cần dành cho họ một cái nhìn đa chiều và tích cực để từ đó có những cảm nhận đúng đắn, sâu sắc về con người ấy. Chính nhân vật Thị Mầu đã góp phần làm nên sức sống cho vở chèo “Quan Âm Thị Kính” vẫn còn âm vang mãi tới ngày hôm nay.
d) Kiểm tra và chỉnh sửa Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 1 (trang 37).